Viêm màng hoạt dịch thể lông nốt sắc tố là tình trạng bệnh lý của màng hoạt dịch khớp, có đặc điểm có thể gây đau và sưng nề khớp cho bệnh nhân đồng thời có tình trạng lắng đọng hemosiderin (một hoạt chất có tính kim loại) trong các khớp.
Nhận biết tổn thương
Tình trạng bệnh thường phát hiện ở bệnh nhân từ 30-50 tuổi. Theo các nhà nghiên cứu của Mỹ, viêm màng hoạt dịch thể lông nốt sắc tố điển hình chỉ ảnh hưởng đến 1 khớp, trong đó khoảng 80% các trường hợp là khớp gối, ngoài ra có thể ảnh hưởng đến khớp háng, cổ chân, vai và khuỷu.
Cấu trúc của đầu gối.
Viêm màng hoạt dịch thể lông nốt sắc tố xuất hiện ở hai hình thái: khu trú hoặc lan tỏa. Thể khu trú thường đáp ứng tốt với điều trị và các nguy cơ tổn thương khớp thấp. Thể lan tỏa thường liên quan đến toàn bộ màng hoạt dịch khớp và có nguy cơ gây tổn thương khớp nhiều hơn và rất không may là thể lan tỏa lại là hình thái tổn thương thường gặp nhất.
Nguyên nhân của viêm màng hoạt dịch thể lông nốt sắc tố chưa được hiểu biết rõ, một số tác giả cho rằng có yếu tố gen nhưng chưa được chứng minh rõ ràng.
Về mặt triệu chứng, tùy theo tổn thương nhưng các triệu chứng lâm sàng thường gặp là đau và sưng nền khớp, bệnh nhân có thể có hạn chế vận động khớp, kẹt khớp và đôi khi có tình trạng lỏng lẻo khớp. Tình trạng lâm sàng thường tiến triển nặng lên một cách từ từ, nhất là với thể lan tỏa.
Chẩn đoán bệnh
Để xác định chẩn đoán, một số thăm dò có thể được thực hiện: xquang chủ yếu có giá trị loại trừ các tổn thương xương, có thể là căn nguyên khác gây nên các triệu chứng hoặc là tổn thương thứ phát; chụp cộng hưởng từ là phương tiện thăm khám rất có giá trị để chẩn đoán cho cả thể khu trú cũng như lan tỏa. Hình ảnh cộng hưởng từ có thể cho thấy tình trạng viêm dày màng hoạt dịch kèm theo các khối tổ chức mô mềm và có thể là tình trạng xương bị phá hủy. Một số trường hợp bác sĩ sẽ chỉ định chọc hút dịch khớp, dịch chọc hút sẽ có màu sắc đỏ như máu do chứa hemosiderin.
Điều trị thế nào?
Phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị chủ yếu đối với tổn thương này. Trước đây, do e ngại các biến chứng của phẫu thuật cũng như tỷ lệ tái phát của bệnh nên việc theo dõi không mổ được khuyến cáo cho bệnh nhân cho tới khi tổn thương khớp nặng phải chỉ định thay khớp. Ngày nay, với sự tiến bộ của phẫu thuật, đặc biệt là phẫu thuật nội soi khớp làm cho đa số bệnh nhân được điều trị phẫu thuật với kết quả tốt, ngăn ngừa tình trạng thoái hóa khớp sớm. Trong một số trường hợp, bệnh nhân không tiến hành phẫu thuật, việc sử dụng một số thuốc giảm triệu chứng là cần thiết.
Nội soi khớp để cắt lọc màng hoạt dịch tổn thương hiện tại vẫn là lựa chọn số 1 để điều trị viêm màng hoạt dịch thể lông nốt sắc tố. Nội soi có ưu điểm là cho phép quan sát và can thiệp vào các khu vực khá sâu trong khớp mà đôi khi mổ mở không thể quan sát tới được.
Mổ mở được chỉ định cho một số trường hợp tổn thương lan tỏa và tạo ra các khối viêm lớn ra phần mềm xung quanh mà đôi khi can thiệp bằng nội soi không giải quyết nhanh chóng được.
Nội soi phối hợp với mổ mở được áp dụng ở một số trường hợp để đảm bảo việc can thiệp mổ mở tối thiểu và việc cắt lọc đảm bảo tối đa màng hoạt dịch tổn thương.
Thay khớp toàn bộ khi tổn thương ở giai đoạn cuối, khớp bị phá hủy nhiều. Trong những trường hợp như vậy, thay khớp giải quyết được vấn đề đau đồng thời phục hồi khả năng đi lại cho bệnh nhân.
Liệu pháp xạ trị đôi khi được sử dụng cho bệnh nhân tổn thương lan tỏa mà khả năng cắt bỏ khó khăn vì liên quan đến các cấu trúc mạch máu và thần kinh hoặc gân và một số trường hợp tái phát nhanh sau phẫu thuật. Liệu pháp xạ trị có thể thực hiện với nguồn phát xạ từ bên ngoài, gần đây có cải tiến hơn với nguồn phát xạ được đưa vào trong khớp. Xạ trị thường áp dụng cho các trường hợp phẫu thuật không thành công và tổn thương tái phát nhanh.
PGS.TS. Trần Trung Dũng