Xuất huyết giảm tiểu cầu ở trẻ em

Xuất huyết giảm tiểu cầu
(XHGTC) là một bệnh lý hay gặp ở trẻ em, thường có diễn biến cấp tính. Gần đây,
người ta đã chứng minh được cơ chế miễn dịch của bệnh khi tìm thấy các kháng
thể kháng lại tiểu cầu.

Bệnh có thể gặp ở mọi lứa
tuổi của trẻ em nhưng có thể phân thành 2 nhóm khác biệt: ở trẻ nhũ nhi và trẻ
lớn.

Vì sao làm tiểu cầu suy giảm?

Có nhiều nguyên nhân gây ra
giảm tiểu cầu nhưng tập trung nằm ở hai nhóm nguyên nhân lớn sau đây: tăng phá
hủy tiểu cầu ở máu ngoại vi; giảm sinh tiểu cầu ở tủy xương.

Trong nhóm đầu tiên lại có
rất nhiều bệnh khác nhau như: đông máu trong lòng mạch cấp tính và mãn tính gây
tiêu thụ lớn tiểu cầu, các u máu lớn ở các vị trí khác nhau của cơ thể, nhiễm khuẩn
huyết, nhiễm virút nặng gây giảm tiểu cầu… hoặc các bệnh có kháng thể kháng lại
tế bào máu như tan máu tự miễn kèm theo giảm tiểu cầu, bệnh lupus ban đỏ… Trong
nhóm này phải kể đến bệnh XHGTC tiên phát mà ngày nay nhiều tác giả gọi đó là
xuất huyết giảm tiểu cầu tự miễn mà chúng ta sẽ nói nhiều sau đây.

Trong nhóm thứ 2, gồm một số bệnh
lý ở tủy xương gây giảm các mẫu tiểu cầu như bệnh suy tủy toàn bộ, suy một dòng
mẫu tiểu cầu hay các bệnh ác tính ở tủy xương như: ung thư di căn tủy, lơxêmi
cấp… khi đó giảm tiểu cầu là tình trạng thứ phát do các bệnh chính gây ra.

XHGTC tiên phát là bệnh gặp
khá phổ biến ở trẻ em. Gần đây, người ta đã chứng minh được cơ chế miễn dịch của
bệnh khi tìm thấy các kháng thể kháng lại tiểu cầu. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa
tuổi của trẻ em nhưng có thể phân thành 2 nhóm khác biệt: ở trẻ nhũ nhi và trẻ
lớn.

Cần cảnh giác với những biểu
hiện của bệnh

Bệnh thường có khởi phát từ
từ kín đáo với sự xuất hiện của các nốt xuất huyết chấm đỏ hoặc bầm tím, hoặc
xuất huyết do xây xước nhẹ trên da, không kèm theo sốt, thiếu máu, sưng hạch hoặc
các biểu hiện toàn thân khác. Các nốt xuất huyết có thể nằm ở bất kỳ vị trí nào
trên cơ thể, thường là không có tính chất đối xứng ở hai chi. Các nốt hoặc mảng
tụ máu có thể tự nhiên xuất hiện hoặc do va đập nhẹ, thường là ở chân tay, mặt.
Những vết cào xước nhẹ ở cổ, thân mình, chân tay cũng gây ra những dải xuất
huyết. Rất ít khi bệnh biểu hiện chảy máu nặng ngay từ đầu như chảy máu mũi,
chân răng, xuất huyết tiêu hóa hay tiểu ra máu. Khoảng 70 – 80% các trường hợp
tiểu cầu trở lại bình thường sau một vài tuần đến 3 tháng khi được điều trị,
20% trở thành mãn tính. Khi số lượng tiểu cầu giảm nặng cần có các biện pháp đề
phòng chảy máu, đặc biệt là chảy máu ở phổi, não dễ gây tử vong.

Sẽ gặp nhiều khó khăn trong
những trường hợp mãn tính

XHGTC ở trẻ em thường có diễn
biến cấp tính. Khoảng 70 – 80% các trường hợp tiểu cầu trở lại bình thường sau một
vài tuần đến 3 tháng khi đã được điều trị. Chỉ đến 20% trở thành mãn tính, số
lượng tiểu cầu thấp kéo dài hoặc tái diễn, mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp
điều trị. Khi số lượng tiểu cầu giảm nặng cần có các biện pháp đề phòng chảy
máu, đặc biệt là chảy máu ở phổi, não dễ gây tử vong cho người bệnh. Ở trẻ nhũ
nhi, bệnh thường hồi phục nhanh chóng, có thể tự khỏi mà không cần điều trị đặc
hiệu. Vì vậy, việc cần thiết là đưa trẻ đến các chuyên khoa huyết học để khám
và theo dõi, tránh tiêm các thuốc hoặc làm các thủ thuật gây chảy máu hoặc tụ
máu cho thêm cho trẻ.

Nguyên tắc của điều trị XHGTC
là dựa vào cơ chế miễn dịch của bệnh. Corticosteroid được sử dụng như một thuốc
kinh điển để điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu. Các thuốc ức chế miễn dịch khác
cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ hoặc thay thế khi các tác dụng phụ của
corticosteroid nặng nề. Gần đây, người ta đã áp dụng các chất kháng lymphoB
điều trị các thể XHGTC mãn tính, nhất là ở trẻ lớn. Trong các trường hợp có
tiểu cầu giảm nặng, nguy cơ xuất huyết nội tạng hoặc não cao thì cần truyền
tiểu cầu.

Đối với các trường hợp mãn
tính thì việc điều trị còn rất nan giải. Những bệnh nhi này cần được theo dõi
tốt, tránh các biến chứng do xuất huyết. Mặt khác, cần hạn chế sử dụng
corticosteroid liều cao, kéo dài làm ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ. Ở trẻ
gái đến tuổi có kinh nguyệt thường có biểu hiện rong kinh, đôi khi gây thiếu
máu nặng. Điều trị các trường hợp này cần sự phối hợp giữa huyết học với sản
khoa và nội tiết.

TS. DƯƠNG BÁ TRỰC

Rate this post