Dễ nhầm lẫn
Tổn thương bánh chè thường xảy ra khi bệnh nhân bị ngã đập gối xuống đất thấy đau chói ở mặt trước khớp gối, không thể tự duỗi gối được. Có thể nhìn thấy khớp gối bị sưng nề to, mất các lõm tự nhiên. Nếu người bệnh đến cơ sở y tế muộn có thể có vết tím bầm ở dưới da. Ấn nơi xương gãy thấy có điểm đau chói cố định. Sờ thấy khe giãn cách giữa hai đoạn gãy. Khám thấy dấu hiệu bập bềnh xương bánh chè và làm được động tác di động ngược chiều giữa 2 đoạn gãy. Tuy nhiên, khi bị ngã hoặc va chạm, nhiều bệnh nhân cho rằng bị bong gân khớp gối vì tổn thương cũng sưng và đau vùng gối.
Xử trí đúng để phòng biến chứng
Khi chấn thương khớp gối chưa thể nhận biết có tổn thương xương bánh chè hay không thì người bệnh cần được nghỉ ngơi, bất động để theo dõi. Để giảm đau, nên lấy khăn lạnh hoặc gói đá vào khăn và chườm trong 20 phút, bỏ ra 20 phút, cứ lặp lại như vậy (không đặt đá lạnh trực tiếp lên da). Sau đó, cần theo dõi nếu tình trạng sưng đau phù nề không giảm hoặc đau càng tăng thì có thể là tổn thương hoặc gãy xương bánh chè.
Hình ảnh gãy xương bánh chè trên phim Xquang.
Đối với trường hợp người bệnh bị gãy xương bánh chè cần sơ cứu bằng cách cố định tạm thời từ 1/3 giữa đùi đến bàn chân trên nẹp ê-ke gỗ, nẹp Crame trong tư thế duỗi gối hoàn toàn. Sau đó, chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế có chuyên khoa xương khớp. Tuyệt đối không được điều trị theo mách bảo, đắp lá, đắp thuốc có thể dẫn tới biến chứng khớp giả xương bánh chè.
Gãy xương bánh chè nếu được điều trị sớm, đúng phương pháp thì xương sẽ nhanh liền và phục hồi chức năng khớp gối tốt sau 3-4 tháng. Nếu không được điều trị, chăm sóc đúng có thể có các biến chứng: viêm mủ khớp gối, teo cơ tứ đầu đùi, xơ hoá, vôi hoá các dây chằng bao khớp gây hạn chế vận động gấp duỗi gối, khó phục hồi chức năng của chi; liền lệch xương bánh chè, biến chứng khớp giả xương bánh chè…
Về điều trị
Tùy từng loại gãy, lứa tuổi mà có phương pháp điều trị bảo tồn hay phẫu thuật. Điều trị bảo tồn khi vỡ xương bánh chè dạng nứt rạn, không di lệch (2 mảnh và mặt khớp bánh chè-lồi cầu đùi không bị khấp khểnh); người bệnh cao tuổi không đi đứng được hoặc có bệnh nội khoa nặng kèm theo. Tùy từng trường hợp có thể được bó bột. Điều trị phẫu thuật được chỉ định khi vỡ xương bánh chè, 2 phần vỡ rời xa nhau quá 4mm, gãy vụn khi diện khớp của các mảnh gãy khấp khểnh hoặc có mảnh rời di lệch vào khớp gối. Có thể mổ buộc vòng chỉ thép, mổ buộc xương chữ U, mổ bắt vít, mổ néo ép. Nếu vỡ vụn quá, cần mổ lấy bỏ xương bánh chè.
Vật lý trị liệu giúp người bệnh hồi phục nhanh
Phục hồi chức năng tránh di chứng là rất quan trọng nhằm tăng cường tuần hoàn, chống teo cơ, đặc biệt là cơ tứ đầu đùi, chống cứng khớp ở người bệnh gãy xương bánh chè.
Đối với bệnh nhân bó bột:
Giai đoạn bất động khớp gối, bệnh nhân cần tập co cơ tĩnh trong nẹp, bột, đặc biệt là cơ tứ đầu đùi. Tập co cơ tĩnh 10 giây/lần, ít nhất 10 lần/ngày. Người bệnh cần tập chủ động các khớp tự do: háng, cổ chân để tăng cường tuần hoàn. Sau khi bột khô, cần đứng dậy, tập đi với nạng, chân bệnh chịu một phần sức nặng.
Giai đoạn sau khi tháo bột hoặc tháo nẹp cố định khớp gối: giảm đau, tránh co cứng khớp gối bằng nhiệt trị liệu, điện xung, điện phân thuốc qua khớp gối (với phẫu thuật buộc vòng chỉ thép chống chỉ định dùng sóng ngắn để điều trị).
Người bệnh cần xoa bóp chống kết dính xung quanh sẹo mổ, xung quanh xương bánh chè và xung quanh khớp. Di động xương bánh chè theo chiều dọc và chiều ngang. Gia tăng tầm vận động khớp bằng kỹ thuật giữ nghỉ và kỹ thuật trợ giúp. Tập duỗi khớp gối hoàn toàn, gấp gối tăng dần để có thể gấp gối 90 độ sau 6 tuần và vận động khớp gối hoàn toàn sau 12 tuần. Gia tăng sức mạnh cơ đùi bằng các bài tập sức cản với tạ, bao cát, ghế chuyên dụng. Tập các bài xuống tấn, đạp xe đạp, trên dụng cụ chuyên biệt, tập bơi, lên xuống cầu thang. Nếu thực hiện đúng chỉ định của bác sĩ và tập luyện thường xuyên, bệnh nhân sẽ phục hồi hoàn toàn và các hoạt động sinh hoạt bình thường sau 6 tháng.
Tập co duỗi khớp gối.
Đối với bệnh nhân phẫu thuật:
Đối với các trường hợp bệnh nhân phẫu thuật, néo ép bánh chè hoặc các phương pháp phẫu thuật khác không cần bột, nẹp tăng cường thì sau phẫu thuật từ ngày thứ nhất đến 14 ngày cần duỗi gối tối đa; gấp khớp gối tới 90 độ. Người bệnh cần chườm lạnh khớp gối 20 phút cách 2 giờ, sau đó băng chun ép cố định khớp gối. Người bệnh đi lại bằng nạng đến khi kiểm soát được cơ đùi, chân phẫu thuật chịu một phần trọng lượng.
Bệnh nhân cần tập co cơ tĩnh cơ tứ đầu đùi và toàn bộ chân phẫu thuật; vận động thụ động khớp gối từ 0 – 30 độ trong những ngày đầu, tăng dần đến 2 tuần đạt gấp gối 90 độ; tập duỗi khớp gối, vận động khớp cổ chân, khớp háng của chân phẫu thuật.
Sau phẫu thuật từ 2 – 6 tuần, bệnh nhân cần vận động của khớp gối; tăng sức mạnh nhóm cơ đùi; giảm đau và phù nề. Bệnh nhân tiếp tục các bài tập ở trên. Tập duỗi khớp gối tối đa; gấp dần khớp gối đến 6 tuần khớp gối có thể vận đông bình thường; chân phẫu thuật tiếp tục chịu trọng lượng và bỏ nạng sau 4 tuần. Tập gia tăng sức mạnh cơ đùi bằng chun, tạ, bao cát hoặc dụng cụ chuyên dụng. Tập xuống tấn, đạp xe đạp, bơi. Sau 6 tháng, bệnh nhân trở lại các hoạt động bình thường. Sau phẫu thuật 2 tuần, bệnh nhân cần tái khám và các lần tiếp theo cách 1 tháng. Khám đến 6 tháng sau phẫu thuật.
BS. Trần Phạm Đăng