Viêm loét đại trực tràng chảy máu

Căn nguyên của bệnh chưa rõ, bệnh mạn tính tiến triển từng đợt, để lại nhiều biến chứng như áp – xe hậu môn, hẹp đại tràng, chảy máu trầm trọng, phình đại tràng nhiễm độc, ung thư hoá…

Biểu hiện và biến chứng

Nổi bật và thường gặp nhất trong VLĐTCM  là đau bụng và tiêu chảy phân máu, kèm theo sốt và sút cân. Tùy từng giai đoạn mà có các biểu hiện khác nhau, thông thường người ta chia làm 3 thể:

Thể nhẹ: Chiếm trên 60% trường hợp, đại tiện nhầy máu chỉ kéo dài dưới 4 ngày, không có thay đổi thể trạng, không có thiếu máu hoặc giảm protein máu. Các biểu hiện ngoài ruột là rất hiếm. Thể này cũng có thể diễn tiến thành thể nặng hơn.

Thể trung bình: Chiếm khoảng 25% trường hợp, các đợt tiêu chảy thường khởi đầu bằng đau quặn bụng, rồi đại tiện phân máu, có thể xảy ra vào ban đêm nhưng số lần đại tiện thường dưới 6 lần/ngày. Thường kèm theo sốt, giảm protein máu, làm bệnh nhân mệt mỏi. Tiên lượng trong thể này kém hơn.

Viêm loét đại trực tràng chảy máuĐau quặn bụng-dấu hiệu khởi phát của viêm loét đại tràng chảy máu.

Thể nặng hoặc thể sét đánh: Chiếm khoảng 15% trường hợp, số lần đại tiện phân máu trên 6 lần/ ngày và thường xảy ra về ban đêm. Thường có cảm giác đau rát buốt hậu môn và mót rặn. Tổng trạng suy sụp với nhịp tim nhanh, huyết áp hạ, sốt cao, bụng trướng. Nếu không được điều trị thì tiến triển rất nặng đưa đến tử vong do xuất huyết trầm trọng hoặc giãn đại tràng nhiễm độc.  Các biến chứng thường gặp của viêm loét đại trực tràng chảy máu là biến chứng ở ruột và biến chứng toàn thân.

Các biến chứng nhẹ của ruột là giả polyp, các biến chứng ít gặp hơn là nứt hậu môn, rò và áp-xe hậu môn. Biến chứng nặng của ruột là chảy máu trầm trọng, hẹp đại tràng, phình đại tràng nhiễm độc, thủng và có thể đưa đến ung thư.

Điều trị như thế nào?

Các thuốc thường được dùng phối hợp là corticoid, sulfasalazin và các dẫn chất, azathioprin, cyclosporin. Tùy theo tình trạng, giai đoạn của bệnh, tổng trạng của bệnh nhân mà bác sĩ sẽ chỉ định dùng thuốc cụ thể.

Corticoid: Đây là thuốc có hiệu quả trong điều trị các đợt cấp nặng hoặc vừa nhất là thể viêm đại tràng toàn bộ hoặc đại tràng trái.

Trong đợt tiến triển mức độ nặng của VLĐTCM  có thể dùng corticoid đường tĩnh mạch liều dùng và thời gian tùy thuộc vào đáp ứng của bệnh nhân, nếu không đáp ứng thì đặt vấn đề cắt đại tràng. Trong đợt tiến triển mức độ vừa và nhẹ có thể dùng corticoid đường uống, liều sử dụng tuỳ theo tình trạng bệnh lý và cân nặng của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân dùng corticoid trên 3 tháng mà đáp ứng không tốt thì đặt vấn đề cắt bỏ đại tràng.

Tác dụng phụ của thuốc đặc biệt khi dùng liều cao kéo dài: phù, rối loạn nước và điện giải, teo cơ, loãng xương, loét hoặc chảy máu tiêu hoá, kinh nguyệt không đều, rậm lông…

Sulfasalazin và các dẫn chất: Nhóm thuốc này thường có hiệu quả trong đợt tiến triển nhẹ hoặc trung bình, trong viêm đại tràng trái hoặc đại tràng sigma – trực tràng. Có thể dùng phối hợp với corticoid để cho hiệu quả điều trị cao hơn. Tác dụng phụ thường gặp là chậm tiêu, buồn nôn, nhức đầu, ngoài ra có một số tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nặng hơn: nổi ban, giảm bạch cầu hạt, thiếu máu huyết tán, bệnh phổi kẽ…

Một số thuốc khác.

Azathioprin (Imuran): Có hiệu quả trong một số trường hợp nặng, khi dùng thuốc cần chú ý bạch cầu hạt, khi lượng bạch cầu hạt trong máu ngoại vi < 1,5 G/L thì không dùng. Thuốc chống chỉ định ở bệnh nhân có tổn thương ở gan, người có tiền sử bệnh gan và phụ nữ có thai.

Cyclosporin: Mới được đưa vào sử dụng với hiệu quả khá tốt. Tuy nhiên khi dùng cần chú ý đến tác dụng phụ của thuốc như tăng huyết áp, rối loạn chức năng thận, rối loạn chức năng gan, rối loạn tiêu hoá, đôi khi có nhức đầu, ban dị ứng, thiếu máu nhẹ.

Người bệnh cần chú ý đến chế độ ăn uống và sinh hoạt của bệnh nhân, động viên bệnh nhân bằng các liệu pháp tâm lý. Trong trường hợp thiếu hụt men lactase thì không cho bệnh nhân dùng sữa, trong đợt tiến triển khẩu phần ăn cần hạn chế chất xơ. Không dùng các chế phẩm của thuốc phiện, thuốc chống tiêu chảy và thuốc kháng cholin vì có thể gây ra phình đại tràng, đặc biệt trong trường hợp có biến chứng phình đại tràng nhiễm độc bệnh nhân phải được theo dõi và điều trị trong trung tâm hồi sức tích cực.

 

BS. Minh Tuyết

Rate this post