Vitamin D có thể được hấp thu từ chế độ ăn uống, nhưng hầu hết nó được sản xuất nội sinh thông qua ánh nắng mặt trời. Vitamin D được tổng hợp tại da dưới tác dụng của tia cực tím và sau đó được hydroxyl hóa tại gan trở thành 25-OH Vitamin D, còn tại thận và các mô ngoại vi trở thành dạng hoạt động: 1,25-OH vitamin D. Thời gian bán hủy của 25- OH vitamin D là khoảng 3 tuần, do đó việc định lượng chất này có thể phản ánh tình trạng vitamin D của một người trong vài tuần đến vài tháng. Vai trò chính của vitamin D là duy trì sự cân bằng của canxi và sự trao đổi chất của xương. Vitamin D có thể còn đóng một phần quan trọng trong kiểm soát ung thư thông qua điều chỉnh sự phát triển của tế bào và sự chết của tế bào bằng việc giảm hình thành mạch máu.
Wnt/β-catenin/TCF được cho là yếu tố dẫn đến ung thư đường tiêu hóa bởi trong phần lớn bệnh nhân ung thư đại trực tràng và viêm đường tiêu hóa đều thấy có sự xuất hiện của Wnt/β-catenin/TCF.
Các thực phẩm chứa nhiều vitamin D
Trong những năm gần đây, với sự tiến bộ đáng kể của khoa học người ta đã tìm ra bản đồ của chuỗi protein trong đó có sự liên quan giữa con đường Wnt/β-catenin và thụ thể vitamin D. Theo đó, nhân tế bào β-catenin điều chỉnh biểu hiện gen thúc đẩy sự tăng sinh tế bào, sự xâm lấn và di căn. 1α,25-dihydroxyvitamin D 3 (1,25(OH) 2 D 3 ) ức chế tín hiệu β-catenin bằng cách gắn nó với thụ thể vitamin D.
Những ảnh hưởng của vitamin D đến sự phát sinh và phát triển của ung thư đại trực tràng thông qua vai trò của nó trong sự điều chỉnh tín hiệu β-catenin và sự đáp ứng miễn dịch bẩm sinh, do vậy nó là một chất có tác dụng phòng bệnh ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, tỷ lệ cao của các tác dụng phụ không liên quan đến tác dụng chống ung thư của vitamin D là vấn đề được quan tâm chủ yếu. Vai trò là một chất chống ung thư của vitamin D cũng bị hạn chế do liên quan đến việc tăng calci máu và calci niệu do nồng độ calci cao.
Qua các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm các tác giả đã xác định vị trí β-catenin chính là chìa khóa trung gian trong tác dụng phòng ung thư của vitamin D và các chất tương tự vitamin D với ung thư đại trực tràng. Vitamin D kìm hãm tín hiệu β-catenin thông qua thụ thể vitamin D và như vậy β-catenin cùng với thụ thể vitamin D có mỗi quan hệ tương tác kích hoạt lẫn nhau.
Thực phẩm giàu vitamin D
Bệnh viêm ruột (bao gồm: bệnh Corhns, viêm đại tràng, hội chứng ruột kích thích) là yếu tố nguy cơ trong ung thư đại trực tràng. Vitamin D và thụ thể vitamin D đã được biết tác động vào sự quy định của hệ miễn dịch bẩm sinh – trung gian điều chỉnh các phản ứng viêm ở đại tràng và niêm mạc các cơ quan khác. Trong hệ miễn dịch Vitamin D tác động trực tiếp vào tế bào T và gián tiếp kháng nguyên của các tế bào.
Ngoài ra, vitamin D có ảnh hưởng quan trọng trong ung thư đại trực tràng bởi vì cả tế bào bình thường và tế bào ung thư đại trực tràng đều có thể sản xuất ra hormon hoạt động từ dạng lưu thông trong tuần hoàn chính của vitamin D là: 25-hydroxy-vitamin D [25(OH)D], giả thiết rằng nó có thể đóng vai trò trực tiếp trong sự phát triển của tế bào đại tràng bình thường và tế bào ung thư.
Hóa trị có liên quan tới sự tăng có ý nghĩa nguy cơ thiếu hụt trầm trọng vitamin D. Những bệnh nhân ung thư đại trực tràng, đặc biệt đang được điều trị hóa trị nên được cân nhắc một chiến lược bổ sung vitamin D.
Một số nghiên cứu dịch tễ học đã được báo cáo về sự liên quan giữa thiếu hụt vitamin D và nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng. Garland et al chứng minh mối liên quan gián tiếp giữa tình trạng vitamin D và nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng thông qua nghiên cứu tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng và sự phơi nắng ở Mỹ. Có một mối quan hệ tỷ lệ nghịch đã được ghi nhận giữa sự phơi nắng và tỷ lệ ung thư đại trực tràng tại Bang Metropolitan. Các nhà nghiên cứu cho rằng việc tăng cường tắm nắng giúp bảo vệ phòng ung thư đại tràng thông qua sự tăng tổng hợp vitamin D ở da. Một phân tích tổng hợp đã đưa ra kết quả giảm 50% nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng với mức 25- OH vitamin D > 33ng/ml so với ≤ 12ng/ml. Tỷ lệ thiếu vitamin D trầm trọng ở những bệnh nhân ung thư đại trực tràng điều trị hóa trị ( 25-OH vitamin D ≤ 15ng/ml) cao hơn gấp 4 lần với những bệnh nhân chưa được điều trị hóa trị hoặc đã hoàn thành hóa trị ít nhất 3 tháng trước khi tham gia nghiên cứu. Các dữ liệu dịch tễ học gợi ý rằng mức tối ưu của vitamin D giúp phòng ngừa ung thư đại trực tràng là > 30 ng/ml hoặc > 40 ng/ml.
BS. Nguyễn Duy Khoa