Theo một thống kê nghiên cứu đa trung tâm do Trường Đại học Y Dược TP.HCM chủ xướng: đa số bệnh nhân (77,6%) không hề biết về bệnh tĩnh mạch trước đó. Điều này nói lên thực trạng về bệnh lý tĩnh mạch ở nước ta, trong đó chủ yếu là bệnh nhân ít quan tâm, ngại đi khám, thầy thuốc coi nhẹ và bỏ sót các triệu chứng. Trong đó, 91,3% số bệnh nhân không được điều trị và 8,7% được điều trị không đúng phương pháp, chủ yếu là sử dụng các loại thuốc chữa triệu chứng như: aspirin, lợi tiểu hoặc các loại thuốc Đông y.
Các triệu chứng chính
Các triệu chứng thường gặp nhất trong giai đoạn đầu là phù hai chi dưới đi kèm với cảm giác nặng, chuột rút về ban đêm, triệu chứng này sẽ bớt khi bệnh nhân kê chân cao buổi tối khi đi ngủ. Về sau, các triệu chứng nặng dần và xuất hiện các mảng rối loạn dinh dưỡng trên da và các tĩnh mạch giãn dần, nổi ngoằn ngoèo, có thể có những đợt viêm tắc tĩnh mạch với các triệu chứng nhiễm trùng toàn thân như sốt cao, môi khô, lưỡi dơ và tại chỗ tĩnh mạch bị viêm đỏ, bên trong lòng xuất hiện những cục thuyên tắc cứng…
Mỏi chân là triệu chứng sớm của bệnh
Các triệu chứng sớm của bệnh suy tĩnh mạch mạn tính thường là:
Mỏi chân, nhất là khi đi lại hay đứng nhiều
Sưng phù mắt cá chân: phù xung quanh mắt cá và thấy rõ vào buổi tối. Khi thấy sưng phù, có thể bạn đã bị giãn tĩnh mạch với biểu hiện là các đường gân xanh nổi ngoằn ngoèo trên da.
Chuột rút về đêm.
Cảm giác như có kiến bò và ngứa chân.
Khi có các dấu hiệu trên, bản thân chúng ta hay chúng ta phải tư vấn cho những người có các triệu chứng như vậy cần đi khám ở một bác sĩ chuyên khoa về tĩnh mạch học để được cho làm siêu âm doppler màu tĩnh mạch, vì đây là một xét nghiệm về chẩn đoán hình ảnh cơ bản cho kết quả chẩn đoán chính xác nhất.
Chẩn đoán
Việc xác định chẩn đoán chủ yếu dựa vào khám lâm sàng bao gồm nhìn thấy những đoạn tĩnh mạch bị giãn, ngoằn ngoèo, da đổi màu, rối loạn dinh dưỡng, loét và sự xuất hiện của các u máu.
Sờ để biết được độ cứng của phần mềm, đặc biệt là vùng trước xương chày, so sánh cả hai bên. Ngoài ra có thể sờ thấy cả một đoạn tĩnh mạch cứng, phù nề, các cục thuyên tắc và xác định nhiệt độ của da.
Với các thầy thuốc chuyên khoa có thể áp dụng một số thủ thuật để đánh giá tình trạng của các van tĩnh mạch hiển trong như: thủ thuật Schwarz, thủ thuật ho, thủ thuật Trendelenburg và thủ thuật Perthe.
Cuối cùng chẩn đoán được xác định bằng siêu âm Doppler màu mạch máu, với phương pháp này cho phép chúng ta xác định được những rối loạn huyết động học, tình trạng của các van tĩnh mạch, mức độ giãn của tĩnh mạch và các cục thuyên tắc trong lòng mạch để từ đó có thái độ điều trị đúng đắn.
Việc xác định chẩn đoán chủ yếu dựa vào khám lâm sàng
Điều trị
Có 5 phương pháp điều trị chính nhằm kiểm soát hay chặn đứng sự trào ngược, loại bỏ trào ngược từ các tĩnh mạch nhánh và từ các mạch nối, cuối cùng là ngăn ngừa sự tràn ngập mô kẽ do dịch thấm ra từ các vi quản.
Phòng ngừa: phương pháp này nhằm chặn đứng sự trào ngược và làm cho các lực tác động lên dòng chảy của tĩnh mạch được tốt hơn. Bao gồm: để chân cao khi nằm nghỉ, tập cơ mạnh hơn, tránh đứng hay ngồi lâu, mang vớ thun hay quấn chân bằng băng thun, sửa lại vị trí bàn chân đối với các dị tật, tránh béo phì, tập hít thở sâu, ăn chế độ có nhiều chất xơ để tránh táo bón…
Băng ép nhằm phục hồi áp suất chênh lệch giữa hai hệ thống tĩnh mạch nông và sâu thông qua hệ thống xuyên, giảm đường kính của lòng tĩnh mạch để tăng khả năng vận chuyển khi nghỉ ngơi cũng như khi gắng sức.
Điều trị nội khoa với các thuốc làm bền thành mạch như Daflon, Rutin C, Veinamitol… nhưng phần lớn chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của giãn tĩnh mạch. Một số thầy thuốc chuyên khoa còn áp dụng phương pháp tiêm gây xơ tại chỗ với các thuốc làm xơ hóa lòng mạch máu.
Mang vớ thun nhằm chặn đứng sự trào ngược và làm cho các lực tác động lên dòng chảy của tĩnh mạch được tốt hơn
Phẫu thuật với hai phương pháp chính: lấy bỏ các tĩnh mạch nông bị giãn gọi là phương pháp Stripping bằng một dụng cụ chuyên dùng cho phép rút các tĩnh mạch như chúng ta làm lòng gà và phương pháp Chivas lấy các đoạn tĩnh mạch bị giãn của hệ thống xuyên, đây là phương pháp điều trị khá triệt để có tỉ lệ tái phát thấp nhất. Ngoài ra hiện nay người ta còn áp dụng phương pháp làm lạnh với Nitơ lỏng âm 900C để làm nghẹt lòng tĩnh mạch qua một ống thông trong lòng tĩnh mạch, tuy nhiên phương pháp này cho tỉ lệ tái phát khá cao đến 30% các trường hợp.
Việc điều trị bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới đòi hỏi sự kết hợp giữa dùng thuốc, phẫu thuật và tập vật lý trị liệu tại các trung tâm chuyên sâu về bệnh này và các khoa phẫu thuật mạch máu tại một số bệnh viện lớn.
Chúng ta hãy phòng bệnh giãn tĩnh mạch bằng các phương pháp rất đơn giản như: tránh béo phì, tránh đứng lâu, tránh táo bón và làm tăng sức bền của thành mạch máu bằng tập thể dục, ăn các thức ăn giàu vitamin…
PGS.TS. NGUYỄN HOÀI NAM
(Cố vấn BV. Quốc tế Minh Anh)