Một đôi vợ chồng vô sinh hiếm muộn là tình trạng một cặp vợ chồng không có thai sau 1 năm dù không dùng biện pháp tránh thai nào. Các nguyên nhân vô sinh – hiếm muộn do nữ chiếm 40%, do nam chiếm 40%, vô sinh – hiếm muộn không rõ nguyên nhân chiếm 20%.
Nguyên nhân hiếm muộn, vô sinh
Theo y học hiện đại:
Các nguyên nhân gây vô sinh nữ bao gồm nguyên nhân do vòi tử cung chiếm 35%, do rối loạn phóng noãn (rụng trứng) chiếm 35%, do lạc nội mạc tử cung chiếm 20%, không rõ nguyên nhân chiếm 10%.
Các nguyên nhân vô sinh do nam gồm nguyên nhân bất thường về tinh dịch (26,4%), giãn tĩnh mạch thừng tinh( 12,3%), do suy tinh hoàn (9,4%), do tắt ống dẫn tinh (6,1%) và các nguyên nhân khác như: các yếu tố bẩm sinh, miễn dịch, rối loạn cương dương, không xuất tinh…
Đàn ông chủ về tinh khí do thận là gốc; phụ nữ lấy việc điều kinh làm đầu
Thăm khám một cặp vợ chồng vô sinh yêu cầu phải thăm khám cả hai người.
Về nguyên tắc, các thăm dò được tiến hành từ đơn giản đến phức tạp, chẩn đoán chính xác nguyên nhân gây vô sinh thì mới đưa ra được phương pháp điều trị phù hợp và có hiệu quả.
Hiện nay, có nhiều phương pháp, kỹ thuật mới và hiện đại được áp dụng để chẩn đoán nguyên nhân gây vô sinh bao gồm: hỏi bệnh sử, khám lâm sàng và các xét nghiệm thăm dò với mục đích tìm ra được nguyên nhân.
Thời điểm điều trị vô sinh không nhất thiết phải là sau 1 năm không có thai, tính từ sau khi lập gia đình hoặc sau lần sảy, lần sinh cuối. Cần phải điều trị sớm hơn cho những trường hợp có nguyên nhân cụ thể như sau:
– Người nam: có tiền sử quai bị biến chứng vào tinh hoàn, phẫu thuật liên quan đến vùng niệu sinh dục hay giãn tĩnh mạch thừng tinh.
– Người nữ: có tiền sử viêm vùng chậu hay những bệnh lý có khả năng gây viêm dính vùng chậu và tắc nghẽn lưu thông vòi trứng.
– Tuổi cao của hai vợ chồng, vì khả năng thụ thai giảm theo tuổi.
Để có thai, cần phải có 4 điều kiện cơ bản:
1. Tinh dịch và tinh trùng tốt.
2. Có sự phóng noãn và chất lượng noãn bào tốt.
3. Có sự kết hợp giữa noãn bào và tinh trùng.
4. Có sự làm tổ của trứng tốt.
Theo y học cổ truyền
Vô sinh nam:
Đàn ông chủ về tinh khí do thận là gốc, vì thận tàng chứa tinh hoa của ngũ tạng và sinh tinh dục. Thận khỏe thì tinh khí đầy đủ, tinh ba của ngũ tạng dồi dào, rất dễ thụ thai, sinh con khỏe mạnh thông minh.
Thận yếu làm tinh khí khô cạn, không thể tàng chứa tinh khí, không sinh tinh, tinh ít, tinh loãng không thể có con hoặc có con yếu ớt, bệnh nhiều, không thọ.
Đàn ông tinh khí yếu một phần do bẩm thụ thiên tiên(cha mẹ truyền cho) yếu ớt, phần nhiều do phòng lao quá độ, do uống bia rượu, hút thuốc lá quá nhiều, tinh tiết ra nhiều, tinh loãng như nước hoặc lạnh như băng, thận tổn thương hoặc lo nghĩ quá độ… đều khó có con.
Thiên Thượng cổ thiên chân luận của Tố Vấn có nói: “Trai 16 tuổi thận khí thịnh, thiên quý đến, tinh khí tràn đầy, âm dương hòa hợp nên mới sinh con… Đến năm 56 tuổi, cạn khí suy, thiên quý hết, tinh ít, thận tàng sút, không sinh con hoặc sinh con yếu ớt”.
Vô sinh nữ:
Phụ nữ lấy việc điều kinh làm đầu, kinh nguyệt đều, đúng kỳ dễ có thai. Kinh nguyệt không đều như : kinh sớm hoặc muộn, kinh nhiều quá hoặc ít quá, rong kinh, bế kinh… đều khó có con.
Thiên Phụ đạo xán nhiên của Hải Thượng Lãn Ông có nói: “Đàn bà không có thai do tà lục dâm thất tình làm tổn thương mạch xung, mạch nhâm, hoặc bệnh cũ ẩn nấp, di truyền trong tạng phủ, hoặc tử cung hư lạnh, hoặc khí thịnh huyết suy, nhiệt phục trong huyết hoặc tỳ vị hư tổn không thể nuôi dưỡng mạch xung, mạch nhâm; hoặc tinh huyết tích đờm ngưng trệ ở bào lạc”.
Thiên Thượng cổ thiên chân luận của Tố Vấn có nói: “Con gái 14 tuổi thiên quý sinh ra nhâm mạch thông, thái xung mạch thịnh, kinh nguyệt xuống đúng kỳ nên mới sinh con. Phụ nữ 49 tuổi, nhâm mạch hư, thai xung mạch kém sút, thiên quý hết, địa đạo không thông, thân thể hao mòn mà không có con”…
Theo Nam nữ khoa của Phó Thanh Chủ, phụ nữ có 10 nguyên nhân không thể thụ thai:
1. Gầy yếu quá không thể thụ thai.
2. Người bệnh cảm thấy đầy trướng trong ngực, chán ăn mà không thụ thai.
3. Nửa người phía dưới lạnh không thụ thai.
4. Ăn no bụng, ngực đầy trướng kèm theo hoặc nôn ói, hoặc tiêu chảy không thụ thai.
5. Bụng dưới căng tức không thụ thai.
6. Vì có tính ghen ghét mà không thụ thai.
7. Béo mập quá không thụ thai.
8. Nóng ngầm trong xương, cứ ban đêm người hâm hấp sốt vì thế mà không thụ thai.
9. Lưng đau, bụng trướng không thụ thai.
10. Bụng trướng, tiểu tiện khó khăn, chân phù thũng không thể thụ thai.
Các bài thuốc kinh nghiệm
Bài thuốc chữa vô sinh nam:
Thục địa 100g, nhục thung dung 100g, huỳnh tinh 100g, kỷ tử 50g, sinh địa 50g, dâm dương hoắc 50g, hắc táo nhân 40g, quy đầu 50g, cam cúc hoa 30g, cốt toái bổ 40g, xuyên ngưu tất 40g, xuyên tục đoạn 40g, nhân sâm 40g, bắc kỳ 50g, phòng đảng sâm 50g, đỗ trọng 50g, đan sâm 40g, trần bì 20g, đại táo 30 quả, lộc nhung 20g, lộc giác giao 40g.
Công dụng: đại bổ thận, bổ mạnh tinh huyết, mạnh gân cốt, dưỡng huyết, sinh tinh, tăng cường sinh lực.
Đối với nam: tăng số lượng và chất lượng tinh trùng; tinh trùng sẽ hoạt động mạnh, di chuyển mạnh hơn.
Thục địa
Phân tích tính vị:
– Thục địa, nhụng thung dung, huỳnh tinh, kỷ tử: bổ thận, sinh tinh.
– Lộc nhung, lộc giác giao: bổ mạnh tinh huyết.
– Nhân sâm, đảng sâm, bắc kỳ, đan sâm: bổ khí, tăng cường sức khỏe.
– Đương quy, xuyên khung: dưỡng huyết, tăng cường sinh lực.
– Sinh địa, táo nhân: dưỡng huyết, an thần.
Các vị thuốc khác trong bài có tác dụng hỗ trợ bổ thận, cường dương, sinh tinh huyết.
Cách ngâm và uống:
Cho toàn bộ vào bình thủy tinh hoặc bình nhựa tốt, loại bình 10 lít, đổ rượu vào 6 lít rượu 40 độ, sau đó lấy 300g đường phèn nấu với nửa lít nước cho tan ra, để nguội đổ chung vào.
Kỷ tử
– Ngâm 1 tháng mới được uống.
– Ngày uống 3 ly nhỏ, mỗi ly khoảng 25ml, sau bữa ăn.
Đàn ông ngoài uống rượu trên còn có thể uống thêm bài lục vị, bát vị gia giảm, tùy theo chứng trạng mà dùng (thận âm suy hay thận dương suy).
Bài thuốc chữa vô sinh nữ:
Đối với phụ nữ, ngoài cách chữa theo 10 nguyên nhân mà Phó Thanh Chủ nêu ra, uống thêm: bát trân gia giảm và lục vị gia đương quy, bạch thược rất có hiệu quả .
Lục vị hoàn: thục địa 320g, hoài sơn 240g, sơn thù 200g, đơn bì 120g, trạch tả 120g, bạch linh 160g.
Riêng thục địa nấu cao pha vào mật ong, các vị còn lại sấy khô tán mịn, hoàn với mật ong mỗi viên 10g. Ngày uống 4 viên chia sáng chiều.
Bát vị hoàn: bài lục vị cộng thêm 2 vị: nhục quế 40g, phụ tử 40g. Hoàn và viên uống như bài lục vị. Bài bát vị có thể gia nhục thung dung, lộc giác giao, ngưu tất, đỗ trọng để làm mạnh tinh khí.
Huỳnh tinh
Bát trân: thục địa 20g, đương quy 16g, xuyên khung 12g, bạch thược 8g, đảng sâm 16g, bạch linh 12g, bạch truật, cam thảo 8g.
Gia: hương phụ 12g (tứ chế), ích mẫu 12g, ngải diệp 12g, huỳnh cầm 12g, đại táo 5 quả, sinh khương 3 lát.
Cách sắc: sắc 3 nước; nước 1: đổ 6 chén nấu còn 1 chén, nước 2: đổ 3 chén nấu còn 8 phân, nước 3: đổ 3 chén còn 7 phân.
Sắc nước nào uống nước đó, tùy theo bệnh có thể uống từ 10 – 15 thang trên mỗi bệnh nhân.
BS. NGUYỄN PHÚ LÂM
(Chủ tịch Hội Đông Y huyện Mang Thít, Vĩnh Long)