Người bị LX thường không biết mình bị bệnh, cho đến khi bị biến chứng gãy xương. Gãy xương do LX thường gặp nhất ở cổ tay, đốt sống và cổ xương đùi. Gãy xương do LX có thể xảy ra ngay cả trong những hoạt động hàng ngày, làm cho người bệnh đau đớn, mất khả năng vận động, mất khả năng sinh hoạt tối thiểu.
Biểu hiện của bệnh
Các biểu hiện lâm sàng
Đau mỏi mơ hồ ở cột sống, đau dọc các xương dài (đặc biệt xương cẳng chân), đau mỏi cơ bắp, ớn lạnh, hay bị chuột rút (vọp bẻ) các cơ…
Đau thực sự ở cột sống, đau lan theo khoang liên sườn, đau khi ngồi lâu, khi thay đổi tư thế. Có thể xuất hiện đau cấp trên nền đau mạn tính (thường xuất hiện sau các chấn thương sinh hoạt (té, trượt chân, chống tay, với đồ vật ở cao, bê xách vật nặng, xoay người đột ngột…) gây gãy xương đốt sống hay gãy cổ xương đùi.
Đầy bụng, chậm tiêu, nặng ngực khó thở.
Gù lưng, vẹo cột sống, giảm chiều cao, hạn chế khả năng vận động…
Tuy nhiên, LX là bệnh diễn biến âm thầm, người ta thường ví bệnh giống như một tên ăn cắp thầm lặng, hàng ngày cứ lấy dần lượng canxi trong ngân hàng dự trữ xương của cơ thể con người. Khi có dấu hiệu lâm sàng, thường là lúc đã có biến chứng, cơ thể đã bị mất tới 30% khối lượng xương.
Về cận lâm sàng
Thông thường người bệnh sẽ được kiểm tra bằng 2 biện pháp:
Chụp Xquang xương và cột sống để tìm dấu hiệu của loãng xương và gãy xương.
Đo khối lượng xương bằng nhiều phương pháp như đo hấp phụ năng lượng tia X kép, đo hấp phụ năng lượng quang phổ đơn hoặc kép, chụp cắt lớp điện toán định lượng, siêu âm định lượng…
Hiện nay đo khối lượng xương bằng phương pháp hấp phụ năng lượng tia X kép (DXA) ở các vị trí trung tâm (cổ xương đùi, cột sống thắt lưng) được coi là kỹ thuật vàng để đáp ứng với tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán loãng xương của Tổ chức Y tế thế giới.
Tuy nhiên, các phương pháp nêu trên mới chỉ đánh giá được khối lượng của xương, trong những trường hợp cần thiết, các thầy thuốc có thể cho kiểm tra các makers chu chuyển xương, thậm chí sinh thiết xương để đánh giá chất lượng xương
Cách phân loại bệnh loãng xương
Loãng xương người già (LX tiên phát): Có đặc điểm là tăng quá trình hủy xương và giảm quá trình tạo xương; nguyên nhân do các tế bào sinh xương (Osteoblast) bị lão hoá, sự hấp thụ canxi và vitamin D ở ruột bị hạn chế, sự suy giảm tất yếu các hormon sinh dục (ở cả nữ và nam). LX tiên phát thường xuất hiện muộn, diễn biến chậm, tăng từ từ và ít có những biến chứng nặng nề như gãy xương hay lún xẹp các đốt sống.
Loãng xương sau mãn kinh: Có đặc điểm là tăng hóa trình hủy xương trong khi quá trình tạo xương vẫn bình thường do sự ngưng đột ngột hoạt động của buồng trứng, làm thiếu hụt oestrogen vì vậy các tế bào hủy xương không được kiểm soát.
Loãng xương thứ phát: Khi có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ sau đây: Còi xương suy dinh dưỡng, thiếu canxi từ nhỏ, khối lượng xương lúc trưởng thành thấp, ít hoạt động thể lực, bị các bệnh mạn tính đường tiêu hoá (dạ dày, ruột…) làm hạn chế hấp thu canxi, vitamin D, protid…; có thói quen sử dụng nhiều rượu, bia, cà phê, thuốc lá… làm tăng thải canxi qua đường tiết niệu và giảm hấp thu canxi ở đường tiêu hóa; giảm hoạt động của các tuyến sinh dục nam và nữ (mãn kinh, mãn dục nam…), bất động quá lâu ngày do bệnh tật, bị các bệnh nội tiết: cường tuyến giáp, cường tuyến cận giáp, cường tuyến vỏ thượng thận, tiểu đường…, bị suy thận mạn hoặc phải chạy thận nhân tạo lâu ngày gây rối loạn chuyển hóa và mất canxi qua đường tiết niệu, mắc các bệnh xương khớp mạn tính (đặc biệt là viêm khớp dạng thấp và thoái hoá khớp), phải sử dụng dài hạn một số thuốc: thuốc chữa bệnh tiểu đường (insulin), thuốc chống đông (heparin) và đặc biệt là các thuốc kháng viêm nhóm cortiosteroid (cortiosteroid một mặt ức chế trực tiếp quá trình tạo xương, mặt khác làm giảm hấp thu canxi ở ruột, tăng bài xuất canxi ở thận và làm tăng quá trình huỷ xương).
Điều trị bệnh ra sao?
Mục tiêu quan trọng nhất của điều trị loãng xương là ngăn ngừa biến chứng gãy xương, ngăn ngừa tái gãy xương. Các thuốc điều trị hiện tại có thể làm giảm 50% nguy cơ gãy xương. Nhưng, điều quan trọng là phải chẩn đoán sớm, điều trị sớm, điều trị liên tục và đủ liệu trình (3 – 5 năm hoặc dài hơn).
Hiện nay chi phí lớn nhất điều trị loãng xương là chi phí điều trị biến chứng gãy xương, đặc biệt là gãy cổ xương đùi (bao gồm: Chi phí nằm bệnh viện để điều trị gẫy xương: Kết hợp xương, thay chỏm xương đùi, nẹp vít cột sống, thay đốt sống hay phục hồi chiều cao của đốt sống…, chi phí điều trị các biến chứng do nằm lâu ở người có tuổi bị gẫy xương (vì phải bất động chỗ xương gẫy, vì không vận động được) như: Viêm phổi, viêm đường tiết niệu, loét tư thế… và chi phí cho các thuốc điều trị tích cực trong suốt quãng đời còn lại để ngăn ngừa gãy xương tái phát.
Các thuốc dùng cho loãng xương gồm: Nhóm thuốc chống hủy xương; thuốc có tác dụng kép (vừa tăng tạo xương và chống hủy xương), thuốc tăng tạo xương và các nhóm thuốc khác . Các thuốc này sẽ được các thầy thuốc chỉ định tùy mức độ bệnh lý, tình trạng sức khỏe, khả năng dung nạp, các bệnh mắc kèm theo… của người bệnh.
Nguyên tắc quan trọng nhất của điều trị là: Điều trị phải liên tục, phải dài hạn, mỗi liệu trình phải kéo dài ít nhất 3 năm, sau mỗi liệu trình người bệnh sẽ được đánh giá lại và thầy thuốc sẽ quyết định chế độ điều trị tiếp theo; luôn luôn kết hợp việc điều trị và các biện pháp; thay đổi lối sống và bảo đảm dinh dưỡng nêu trên.
Hậu quả khi bị loãng xương.
Làm gì để phát hiện sớm bệnh?
Phụ nữ quanh tuổi mãn kinh, người trên 60 tuổi cả hai giới, người trẻ tuổi nhưng có các yếu tố nguy cơ (nêu trên) nên:
Tầm soát các yếu tố nguy cơ gây loãng xương thứ phát.
Đi khám bệnh sớm, ngay khi có các dấu hiệu đau mỏi mơ hồ ở hệ thống xương khớp, dọc các xương dài (đặc biệt xương cẳng chân), đau mỏi cơ bắp, chuột rút…
Luôn có ý thức phòng ngừa loãng xương từ khi chưa có bệnh (trong suốt cuộc đời): Chế độ sinh hoạt, tập luyện tăng cường hoạt động ngoài trời, tập vận động thường xuyên và phù hợp với sức khoẻ, duy trì lối sống năng động, tránh các thói quen xấu (Uống nhiều bia, rượu, cà phê, hút thuốc lá…); chế độ ăn uống luôn luôn bảo đảm đầy đủ protein và khoáng chất, đặc biệt là canxi. Vì vậy sữa và các chế phẩm từ sữa (bơ, phoma, sữa chua…) là thức ăn bổ sung lý tưởng cho một khung xương khỏe mạnh. Chế độ này cần được duy trì suốt cuộc đời mỗi người; kiểm soát tốt các bệnh lý ảnh hưởng và các yếu tố nguy cơ gây loãng xương.
Phương pháp phòng bệnh
Thay đổi lối sống và bảo đảm dinh dưỡng là cách tốt nhất vừa để phòng bệnh vừa để điều trị loãng xương.
Tăng cường vận động thể lực: Vận động giúp tạo dự trữ canxi, tăng sự khéo léo, sức mạnh của hệ thống cơ, sự cân bằng nên ít bị ngã và gẫy xương. Ngoài ra, vận động còn bảo vệ xương không bị mất thêm, nên tập các vận động chịu lực, chạy hay đi bộ, khiêu vũ, chơi bóng hay đánh cầu đều tốt, chỉ tránh môn thể thao dễ gây gãy xương.
Bổ sung đầy đủ các thành phần dinh dưỡng cho cơ thể (đạm, bột đường, chất béo, khoáng chất và vitamin) đặc biệt calcium và vitamin D (thông qua thực phẩm và dược phẩm) vì hai chất này là thiết yếu để tạo khối lượng xương khi còn trẻ và ngăn ngừa mất xương khi đã có tuổi.
Phòng tránh té ngã, phát hiện và điều chỉnh các bệnh lý mắc phải của mỗi người.
Hạn chế thuốc lá, rượu bia, tránh lạm dụng thuốc.
TS. BS. Lê Anh