Theo thống kê trong số người nhập viện vì bệnh động mạch vành, có khoảng 25% tử vong ở giai đoạn cấp tính của bệnh. Tại Việt Nam, tỷ lệ bệnh nhân có xu hướng ngày càng tăng rõ rệt.
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Hầu hết thiếu máu cục bộ cơ tim là do xơ vữa động mạch vành gây hẹp lòng mạch máu và từ đó gây giảm tưới máu cơ tim. Lòng mạch có thể bị hẹp nhiều hơn nữa, thậm chí tắc hẳn do các yếu tố phối hợp như co thắt, cục máu đông. Bên cạnh yếu tố xơ vữa, tổn thương hay rối loạn chức năng nội mạc có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc gây co thắt động mạch vành. Xơ vữa có thể được làm dễ bởi nhiều yếu tố nguy cơ đã được xác lập như:
Các yếu tố như khói thuốc lá, chất bảo quản, ô nhiễm môi trường… làm cho cơ thể sản sinh ra nhiều gốc tự do và gây ra những phản ứng viêm mạn tính trong cơ thể và gây tổn thương mạch vành. Khi mạch vành bị tổn thương, cholesterol xấu trong cơ thể sẽ tích tụ hình thành nên mảng xơ vữa.
Viêm mạn tính trong cơ thể cũng có thể khiến mảng xơ vữa bất ngờ vỡ ra làm cục máu đông hình thành trên bề mặt phần bị vỡ và đột ngột gây tắc nghẽn hoàn toàn mạch vành, biểu hiện ra bên ngoài là cơn đau thắt ngực không ổn định. Nếu cục máu đông không tan ra, các tế bào cơ tim sẽ không được cung cấp máu và gây ra tình trạng nhồi máu cơ tim.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở những bệnh nhân có yếu tố sau có nguy cơ mắc hội chứng vành cấp cao hơn những bệnh nhân khác, trong đó, tuổi tác là vấn đề thường thấy có nguy cơ tăng cao khi nam giới lớn hơn 45 tuổi và nữ giới lớn hơn 55 tuổi. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng cholesterol ở những người hút thuốc lá cao hơn hẳn người không hút thuốc. Ngoài ra, các chất trong khói thuốc lá cũng là nguyên nhân gây xơ vữa và co thắt mạch vành. Đối với bệnh nhân mắc đái tháo đường týp 2, béo phì, ít vận động thể lực hoặc có tiền sử gia đình có người bệnh mạch vành sớm là một trong những yếu tố có nguy cơ cao mắc bệnh.
Xơ vữa mạch vành khiến lượng máu đến tim giảm.
Dấu hiệu nhận biết hội chứng động mạch vành cấp
Hội chứng vành cấp là một bệnh cảnh lâm sàng cấp cứu do thiếu máu cục bộ cơ tim cấp, có thể biểu hiện ở giai đoạn sớm như một cơn đau thắt ngực không ổn định hoặc muộn hơn là nhồi máu cơ tim. Cơn đau ngực trong hội chứng mạch vành cấp có thể đến đột ngột với tính chất rất dữ dội, nhưng cũng có thể khởi phát từ từ với mức độ đau nhẹ hoặc chỉ là khó chịu ở ngực. Người bệnh thường mô tả cảm giác giống như bị đè nén, bóp chặt hoặc bỏng rát. Đau có thể lan lên cổ, hàm, vai, cánh tay… Các triệu chứng khác bao gồm: Hồi hộp, lo lắng, đánh trống ngực; Vã mồi hôi, chóng mặt, choáng váng, đầu óc quay cuồng; Mệt mỏi bất thường không rõ nguyên nhân; Buồn nôn hoặc nôn mửa; Cơn đau thường rất ngắn chỉ 10-30 giây hay 1 vài phút; nếu cơn đau kéo dài trên 15 phút là có khả năng đã bị nhồi máu cơ tim.
Tuy nhiên, trong bệnh cảnh đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim không có ST chênh lên so với nhồi máu cơ tim có ST chênh lên – dấu hiệu này có sự khác nhau. Trong đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim không có ST chênh lên (nhồi máu cơ tim không Q) đều có đau thắt ngực xuất hiện khi nghỉ, thường kéo dài dưới 20 phút, hết đi dưới tác dụng của nitroglycerin. Nếu đau thắt ngực không ổn định là cơn đau mới xuất hiện, tăng về cường độ hoặc đau thắt ngực ngay sau nhồi máu cơ tim, thì nhồi máu cơ tim không Q thường xuất hiện trên những bệnh đái tháo đường hoặc tăng huyết áp. Ngược lại, trong nhồi máu cơ tim có ST chênh lên, đau thắt ngực xuất hiện khi gắng sức hoặc xúc cảm, kéo dài trên 30 phút và không mất đi dưới tác dụng của thuốc nitroglycerin.
Đến khám bác sĩ sàng lọc bệnh mạch vành khi nào?
Những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ như: tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, hút thuốc lá, béo phì, lối sống tĩnh tại, trong gia đình có người trực hệ như bố mẹ, anh chị em ruột bị bệnh mạch vành… đều nên định kỳ khám chuyên khoa 6 tháng/lần để được tư vấn, sàng lọc bệnh mạch vành. Đặc biệt, những ai có cơn đau ngực cũng nên đến khám chuyên khoa tim mạch. Lưu ý, khi khám cần thông báo cho các bác sĩ về tình trạng bệnh tật, tiền sử bệnh tật, gia đình, khám lâm sàng, đo huyết áp, làm một số xét nghiệm cần thiết như điện tâm đồ, siêu âm tim, xét nghiệm sinh hóa máu (glucose, lipid, creatinin, GOT, GPT…), công thức máu – đông máu…
Về điều trị
Nguyên tắc điều trị: Sau khi nhập viện, bệnh nhân sẽ được điều trị nội khoa (dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ) hoặc điều trị can thiệp thủ thuật, phẫu thuật (nong động mạch vành, mổ bắc cầu động mạch vành…) tùy theo tình trạng bệnh.
Về điều trị lâu dài: Sau khi được điều trị ổn định, bệnh nhân cần được tư vấn về điều trị và theo dõi lâu dài, cần được hướng dẫn, giáo dục về sức khỏe, hoạt động thể lực, thay đổi lối sống và sử dụng thuốc sau khi xuất viện. Chăm sóc và điều trị đúng sau xuất viện sẽ hạn chế nguy cơ tiến triển nặng hơn và hạn chế các biến chứng do bệnh lý của động mạch vành gây nên như suy tim, nhồi máu cơ tim, nhồi máu cơ tim tái phát hoặc tử vong, góp phần nâng cao chất lượng sống và kéo dài tuổi thọ.
Để phòng bệnh
Cần điều chỉnh các yếu tố nguy cơ, điều chỉnh lối sống và chế độ ăn uống phối hợp với uống thuốc; Ngưng hút thuốc, bỏ rượu, bia hoặc các chất kích thích; Nên ăn nhiều rau, quả, củ, thức ăn có chất xơ; Kiêng ăn mặn, mỡ, các thức ăn có nhiều acid béo bão hòa, nhiều cholesterol, hạn chế các thức ăn có nhiều đường; Tránh các hoạt động gắng sức về thể lực, tránh các căng thẳng trí óc trong sinh hoạt hằng ngày… Tập thể dục nhẹ, vừa sức, đều đặn hằng ngày là rất cần thiết.
Về công việc, các bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp không biến chứng có thể trở lại làm việc sau 2 tháng đối với các công việc nhẹ nhàng. Đối với các công việc lao động nặng, hoạt động trí óc căng thẳng, bệnh nhân cần phải được kiểm tra và đánh giá lại để xác định có phù hợp với công việc không. Một số nghề đòi hỏi thể lực và mức gắng sức cao, không thích hợp với bệnh nhân thì cần được tư vấn tìm một công việc khác phù hợp với tình trạng bệnh.
BS. Ngô Tuấn Phong