Trong y học cổ truyền, vô sinh cũng được chia làm hai loại: Vô sinh nam và vô sinh nữ. Vô sinh nam thuộc phạm vi các chứng bệnh như: Bất dục, vô tử, tuyệt dục, nam tử nán tự, vô tinh, thiểu tinh, lãnh tinh… Vô sinh nữ thuộc phạm vi các chứng bệnh như: Bất dựng, toàn vô tử, đoạn tự, chủng tử, tử tự, tự dục, cầu tự…
Nguyên nhân nào dẫn đến vô sinh ?
Với vô sinh nam: Có 7 nguyên nhân chính bao gồm bẩm thụ tiên thiên bất túc, tinh khí suy nhược (yếu tố di truyền, dị tật bẩm sinh); mệnh môn hỏa suy, tinh khí hư lãnh (rối loạn nội tiết tố nam, tinh dịch lỏng loãng và lạnh, chất lượng và số lượng tinh trùng suy giảm); đàm trọc ứ huyết, trở tắc tinh đạo (các bệnh gây rối loạn chuyển hóa và nội tiết, những yếu tố gây hẹp tắc đường dẫn tinh); tửu thực bất điều, thấp nhiệt hạ chú (ăn uống không điều độ, nghiện rượu, viêm nhiễm đường tiết niệu sinh dục do nguyên nhân nội sinh); tình chí bất toại, can kinh uất trệ (yếu tố gây sang chấn tâm lý, tinh thần); cửu bệnh lao quyện, khí huyết khuy hư (mắc các bệnh mạn tính lâu ngày gây suy nhược cơ thể, suy giảm tính dục, suy giảm chất lượng và số lượng tinh trùng); di trọc nội tích, dâm độc thâm nhiễm (viêm nhiễm bộ phận sinh dục, đặc biệt là phần dưới, do nguyên nhân cảm nhiễm bên ngoài).
Đông y điều trị vô sinh gồm tổng thể nhiều biện pháp như dùng thuốc, bấm huyệt…
Với vô sinh nữ: Có 6 nguyên nhân chính gồm thận hư (thận dương hư và thận âm hư, “Thận” ở đây với ý nghĩa là một cơ quan chủ về thủy dịch, chủ về đại tiểu tiện, nội tiết và sinh dục theo quan điểm của y học cổ truyền. Nguyên nhân “thận hư” bao gồm các yếu tố gây rối loạn nội tiết và sinh dục dẫn đến vô sinh); huyết hư (huyết là cơ sở vật chất của kinh nguyệt, huyết hư là những yếu tố gây nên tình trạng thiếu máu và rối loạn kinh nguyệt như mắc các bệnh mạn tính, mất máu kéo dài…); can uất (là những yếu tố gây sang chấn tâm lý, căng thẳng tinh thần kéo dài); đàm thấp (là những nguyên nhân gây nên bệnh lý rối loạn nội tiết, rối loạn chuyển hóa, gây trở tắc vòi trứng, ứ trệ trong tử cung…); thấp nhiệt (là những yếu tố gây viêm nhiễm bộ phận sinh dục); huyết ứ (là những nguyên nhân gây ứ trệ huyết dịch, làm cản trở công năng của bào cung, khiến cho quá trình thụ thai bị trở ngại).
Đông y điều trị vô sinh như thế nào ?
Để trị liệu vô sinh, cũng như đối với các chứng bệnh khác, nguyên tắc chung của đông y là phải đảm bảo tính toàn diện, nghĩa là ngoài việc dùng thuốc, cần chú ý đồng thời sử dụng nhiều biện pháp không dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt, tập luyện khí công dưỡng sinh, tâm lý liệu pháp, dược thiện (món ăn – bài thuốc), điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt cho phù hợp… Đương nhiên, việc dùng thuốc vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng và thường được tiến hành theo hai hướng: Biện chứng thi trị và biện bệnh thi trị.
Biện chứng thi trị hay còn gọi là biện chứng luận trị, là phương thức trị liệu dựa trên cơ sở chứng trạng và thể bệnh cụ thể mà tiến hành lựa chọn các vị thuốc và bài thuốc cho phù hợp. Biện bệnh thi trị là phương thức dựa trên cơ chế bệnh sinh chủ yếu của bệnh mà xây dựng một bài thuốc hoặc một phác đồ điều trị chung cho nhiều thể bệnh. Phương pháp trị liệu vô sinh nam và vô sinh nữ không giống nhau.
Các vị trong bài thuốc Long đởm tả can thang điều trị vô sinh nam.
Với vô sinh nam
Thường tiến hành biện chứng luận trị theo tám thể bệnh:
Với thể Thận âm khuy hư phải tư âm bổ thận, điền tinh chủng tử, thường chọn dùng bài thuốc Ngũ tử diễn tông hoàn phối hợp với Tả quy ẩm gia giảm.
Với thể Thận dương bất túc phải ích thận ôn dương, bổ tinh, thường chọn dùng bài thuốc Ngũ tử diễn tông hoàn phối hợp với Kim quỹ thận khí hoàn gia giảm.
Với thể Khí huyết khuy hư phải ích khí kiện tỳ, dưỡng huyết sinh tinh, thường dùng bài thuốc Bát trân sinh tinh thang gia giảm.
Với thể Tỳ thận lưỡng hư phải ôn bổ tỳ thận, ích khí sinh tinh, thường chọn dùng bài thuốc Thập tử thang phối hợp với Lục quân tử thang gia giảm.
Với thể Thấp nhiệt hạ chú phải thanh nhiệt lợi thấp, tiêu thũng giải độc, thường chọn dùng bài thuốc Long đởm tả can thang phối hợp với Tỳ giải thẩm thấp thang gia giảm.
Với thể Đàm trọc ngưng trệ phải hóa đàm lý khí, hóa kết thông lạc, thường dùng bài thuốc Thương phụ đạo đàm thang gia giảm.
Với thể Huyết ứ trở trệ phải hoạt huyết hóa ứ thông tinh, thường dùng bài thuốc Huyết phủ trục ứ thang gia giảm.
Với thể Hàn trệ can mạch phải noãn can tán hàn, ôn kinh hành khí, thường dùng bài thuốc Noãn can tiễn gia giảm.
Với vô sinh nữ
Thường tiến hành biện chứng luận trị theo mười thể bệnh:
Với thể Thận dương hư phải ôn thận noãn cung, ích xung chủng tử, thường chọn dùng bài thuốc Hữu quy hoàn phối hợp với Nhị tiên thang gia giảm.
Với thể Thận âm hư phải tư thận ích tinh, dưỡng xung chủng tử, thường chọn dùng bài thuốc Tả quy hoàn phối hợp với Nhị chí hoàn gia giảm.
Với thể Khí huyết hư nhược phải ích khí dưỡng huyết, điều kinh chủng tử, thường dùng bài thuốc Lưu lộc trân gia giảm.
Với thể Can khí uất kết phải sơ can giải uất, điều kinh chủng tử, thường dùng bài thuốc Khai uất chủng ngọc thang gia giảm.
Với thể Khí trệ huyết ứ phải lý khí hoạt huyết, hóa ứ chủng tử, thường dùng bài thuốc Cách hạ trục ứ thang gia giảm.
Với thể Hàn ngưng huyết ứ phải ôn thông tán hàn, hóa ứ chủng tử, thường dùng bài thuốc Thiếu phúc trục ứ thang gia giảm.
Với thể Nhiệt ứ hỗ kết phải hoạt huyết hóa ứ, thanh xung chủng tử, thường chọn bài thuốc Giải độc hoạt huyết thang gia giảm.
Với thể Khí hư huyết ứ phải bổ ích khí huyết hóa ứ chủng tử, thường dùng bài thuốc Đương quy bổ huyết thang gia giảm.
Với thể Thấp nhiệt uẩn kết phải hóa thấp giải độc, thanh xung chủng tử, thường chọn dùng bài thuốc Ngũ vị tiêu độc ẩm gia giảm.
Với thể Đàm thấp phải kiện tỳ hóa thấp, hóa đàm chủng tử, thường chọn dùng bài thuốc Thương phụ đạo đàm thang gia giảm.
Ngoài phương thức biện chứng luận trị, trong trị liệu vô sinh, các thầy thuốc đông y còn sử dụng phương thức biện bệnh thi trị bằng các hình thức như: Dùng phương thuốc dân gian, dùng tân phương (là các phương thuốc tự xây dựng, để phân biệt với cổ phương) hoặc các đông dược thành phẩm.
Tóm lại, đối với bệnh lý vô sinh, đông y cũng có một bề dày kinh nghiệm chẩn trị dựa trên một hệ thống cơ sở lý luận chặt chẽ và vững chắc. Đương nhiên, do hạn chế của lịch sử, ở một phương diện nào đó, hiệu quả thu được chưa cao hoặc không có hiệu quả, nhưng không phải vì thế mà phủ nhận hoàn toàn. Thực tế hiện nay, ở nhiều nước, người ta đã và đang không ngừng nghiên cứu sử dụng biện pháp của đông y, trong đó có đông dược, để trị liệu căn bệnh còn nan giải này. Rất tiếc là, ở nước ta cho đến nay, những công trình nghiên cứu khoa học và nghiêm túc của đông y về vấn đề này còn rất hiếm hoi.
ThS. Hoàng Khánh Toàn