Đặt ống ghép nội mạch điều trị phình động mạch chủ ngực

Ngày nay, phình động mạch chủ (ĐMC) không còn là bệnh lý hiếm gặp, số bệnh nhân mắc phình ĐMC nhập viện ngày càng tăng. Đây là bệnh lý giãn ĐMC vĩnh viễn và không phục hồi, bệnh tiến triển liên quan đến một số yếu tố nguy cơ thường gặp bao gồm: xơ vữa động mạch, hút thuốc lá, nam giới và tăng huyết áp…

Ca bệnh lâm sàng

Bệnh nhân N.V.U 73 tuổi, nhập viện Trung ương Quân đội 108 (BVTWQĐ 108) vì đau ngực dữ dội. Bệnh nhân nhanh chóng được thăm khám và chụp phim cắt lớp vi tính (CT Scan) phát hiện có một khối giả phình lớn ở quai ĐMC. Đây là bệnh lý phức tạp và có tỷ lệ tử vong cao. Với phương pháp thông thường, bệnh nhân sẽ được phẫu thuật thay toàn bộ quai ĐMC và cắm lại các mạch ở quai ĐMC. Phương pháp này thời gian mổ kéo dài (9-12 giờ) và nguy cơ tai biến, biến chứng do phẫu thuật rất cao. Tuy nhiên, bệnh nhân đã được tiến hành một phương pháp mới, lần đầu áp dụng tại BVTWQĐ 108, kết hợp giữa phẫu thuật (chuyển vị các nhánh nuôi não) và đặt một giá đỡ trong lòng quai ĐMC, gọi là “stent graft”. Với phương pháp này, thời gian mổ chỉ còn khoảng 1 giờ và thời gian đặt stent graft chỉ mất 10 phút. Thời gian hồi phục nhanh và số ngày nằm viện được rút ngắn đáng kể. Bệnh nhân N.V.U nhanh chóng hồi phục sức khỏe và được xuất viện.phình động mạch chủ ngực

Hình ảnh phình động mạch chủ ngực (trước can thiệp).

Phình ĐMC là bệnh lý giãn ĐMC vĩnh viễn và không phục hồi, khi đường kính ngang đo được lớn hơn hoặc bằng 1,5 lần so với  đường kính phần còn lại của ĐMC. Phình ĐMC ngực chiếm khoảng 2-5% của tất cả phình mạch máu.

Tiến triển của bệnh liên quan đến một số yếu tố nguy cơ thường gặp bao gồm: xơ vữa động mạch, hút thuốc lá, nam giới và tăng huyết áp. Phình ĐMC ngực có tỉ lệ phát triển trung bình 0,42 – 0,56cm/năm. Khi đường kính ĐMC ngực càng lớn thì nguy cơ gây vỡ phình càng tăng dẫn đến nguy cơ tử vong càng cao. Đối với những phình có đường kính lớn hơn 6cm thì tỉ lệ tử vong, vỡ hoặc bóc tách ĐMC khoảng 15,6% trên năm và khi vỡ phình ĐMC thì tỉ lệ tử vong này lên đến 97 – 100%.

Dấu hiệu của bệnh

Thông thường, phình ĐMC ít có triệu chứng hoặc chỉ được phát hiện tình cờ khi khám sức khỏe định kỳ hay khi chụp Xquang ngực thường quy. Ngoài ra, một số bệnh nhân có triệu chứng không điển hình như:

Đau: Thường đau mơ hồ, có thể đau ở cổ và hàm dưới, hoặc đau giữa hai xương bả vai, hay đau lưng, đau vai trái. Khi có phình tách ĐMC thì xuất hiện đau đột ngột như xé vùng trước ngực hoặc sau lưng;

Dấu hiệu chèn ép: Khi phình lớn có thể gây chèn ép các cấu trúc xung quanh hay tạng lân cận gây khàn tiếng (chèn ép thần kinh thanh quản) hoặc khó thở, khó nuốt do chèn vào khí quản, thực quản hoặc phù do chèn ép vào tĩnh mạch;

Vỡ phình ĐMC: Đây là biến chứng nặng và nguy hiểm, bệnh nhân thường tử vong trước khi nhập viện. Một số trường hợp may mắn vỡ chưa hoàn toàn cần phẫu thuật cấp cứu tối khẩn cấp. Khi chưa sốc và trụy tim mạch thì các triệu chứng thường gặp là:

. Đau ở ngực hoặc bụng, lưng. Tính chất đau thường đột ngột và đau nhiều.

. Mạch nhanh và huyết áp không đo được hoặc rất thấp. Da niêm mạch nhợt do mất máu.

. Làm chẩn đoán hình ảnh sẽ thấy dịch trong màng phổi hay sau phúc mạc.

Với trường hợp này, cần khẩn trương tiến hành phẫu thuật. Tuy nhiên, tiên lượng cũng rất khó khăn.can thiệp đặt ống ghép nội mạch

Hình sau khi can thiệp đặt ống ghép nội mạch (Stent graft động mạch chủ ngực).

Điều trị phình ĐMC ngực với những tiến bộ mới

Khi túi phình có kích thước ngang lớn hơn 50mm hoặc mỗi năm đường kính túi phình tăng hơn 5mm thì cần được điều trị triệt để. Đối với phình hình túi thì chỉ cần đường kính  lớn hơn 30mm đã cần can thiệp.

Hiện nay, hầu hết các trung tâm tim mạch trong nước đều điều trị bệnh lý này bằng phẫu thuật. Phẫu thuật mổ mở, cắt bỏ đoạn phình và thay bằng đoạn động mạch nhân tạo dưới sự hỗ trợ của máy tuần hoàn ngoài cơ thể. Đây là phẫu thuật khó, đòi hỏi trình độ và kinh nghiệm của các thầy thuốc. Điều trị phẫu thuật có tỉ lệ tử vong chu phẫu 5 – 35% và tỉ lệ biến chứng vẫn còn cao, đặc biệt ở những bệnh nhân lớn tuổi và có các tổn thương khác phối hợp. Chăm sóc sau mổ cũng nặng nề và khá phức tạp.

Tuy nhiên, cùng với tiến bộ của y học, đặc biệt tiến bộ của ngành tim mạch can thiệp, bệnh nhân có thể không cần phải mổ. Một phương pháp điều trị đặc biệt sẽ thay thế phương pháp mổ truyền thống, gọi là đặt ống ghép nội mạch qua da. Đây là can thiệp ít xâm lấn với kết quả ban đầu tốt.

Đặt ống ghép nội mạch là phương pháp điều trị thay thế an toàn và hiệu quả so với phương pháp phẫu thuật vì không phải sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể. Để đặt ống ghép nội mạch an toàn cần phải đánh giá kích thước của động mạch đầu xa làm đường dẫn có đủ hay không, đường đi của ĐMC có bị quặn xoắn hay bị gập góc và quan trọng nhất là hình thái học của túi phình có thích hợp hay không. Các bác sĩ can thiệp sẽ luồn ống ghép qua da vào vùng mạch bị phình và ống ghép này sẽ thay thế đoạn mạch bệnh lý. Bệnh nhân sẽ hồi phục nhanh chóng, không cần nằm viện lâu, theo dõi chăm sóc sau can thiệp cũng nhẹ nhàng. Tuy nhiên, chi phí cho can thiệp này còn cao so với thu nhập của người dân nước ta. Hiện nay, đã có nhiều trung tâm tim mạch của nước ta áp dụng phương pháp này như BVTWQĐ 108, BV Bạch Mai, BV Việt Đức, BVTW Huế, BV Chợ Rẫy và đạt được kết quả rất khả quan, mở ra hướng đi mới cho những bệnh nhân có bệnh lý phình ĐMC ngực.

BS. Ngô Tuấn Anh

Rate this post