Với TMCT, bệnh nhân ngày càng được điều trị sớm hơn, đầy đủ hơn và ít xâm lấn hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn, giúp bệnh nhân nhanh chóng quay lại cuộc sống hằng ngày và hòa nhập lại với cuộc sống.
Trong năm 2016, chỉ tính riêng ở Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, tổng số ca chụp và can thiệp mạch vành hơn 2500 trường hợp, can thiệp mạch não 500 trường hợp, thăm dò điện sinh lý và đặt máy tạo nhịp hơn 200 trường hợp, can thiệp tim bẩm sinh hơn 100 trường hợp và các kỹ thuật khác như: TACE, stent động mạch chủ, can thiệp mạch máu chi với số lượng đáng kể.
Tim mạch can thiệp
Tim mạch học gồm 3 mảng lớn: nội tim mạch, TMCT và phẫu thuật tim. Mỗi mảng đóng vai trò riêng trong quá trình dự phòng, chẩn đoán và điều trị các bệnh lý tim mạch. Ba mảnh ghép này có mối liên kết tương trợ lẫn nhau tạo một vòng tròn khép kín nhằm mục tiêu tối ưu việc chẩn đoán và điều trị bệnh nhân có bệnh tim mạch.
Hình ảnh đặt stent động mạch vành
TMCT xuất hiện và phát triển sau nội tim mạch và phẫu thuật tim mạch nhưng đã có những bước phát triển thần kỳ. Từ chỗ chỉ hỗ trợ trong chẩn đoán và là phương pháp điều trị phụ bên cạnh điều trị nội khoa và phẫu thuật, đến nay, TMCT là mảng không thể thiếu trong chẩn đoán và điều trị bệnh tim mạch. Mang lại một sự lựa chọn khác ngoài phẫu thuật và điều trị nội khoa cho các bệnh nhân có bệnh tim mạch.
TMCT là những thủ thuật xâm lấn tối thiểu giúp chẩn đoán và điều trị bệnh lý tim mạch, không giống như phẫu thuật truyền thống, những thủ thuật này được thực hiện qua một hoặc nhiều ống thông (catheter) rất nhỏ có đường kính từ 2mm – 3mm, ống thông này được đưa vào trong lòng mạch máu hoặc buồng tim để thăm dò về chức năng hoặc cấu trúc cũng như thực hiện điều trị những tổn thương của những cấu trúc này. Vị trí đưa ống thông thường là tại động mạch quay ở cổ tay hoặc động mạch hoặc tĩnh mạch bẹn đùi.
Những thủ thuật này được thực hiện qua một hoặc nhiều ống thông rất nhỏ có đường kính từ 2mm – 3mm
– So với mổ tim, TMCT có những ưu điểm sau:
Không cần gây mê.
Ít đau.
Ít chảy máu.
Tỉ lệ biến chứng thấp.
Thời gian thực hiện thủ thuật ngắn.
Bệnh nhân có thể đi lại, sinh hoạt sau 24 giờ.
Thời gian hồi phục nhanh.
Có thể thực hiện trên bệnh nhân lớn tuổi có nhiều bệnh lý mạn tính đi kèm.
Những khó khăn trong điều trị bệnh tim mạch hiện nay
Hiện nay, các bệnh liên quan đến đang là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu theo báo cáo thống kê của nhiều nước, đặc biệt tại châu Á, bệnh tim mạch được xem là sát thủ gây tử vong số 1 trong những năm gần đây.
Thiết bị khoan phá mảng xơ vữa ĐMV (Rotablator)
– Hơn thế nữa, bệnh có những biến chứng nặng nề không những ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân mà còn là gánh nặng cho gia đình và xã hội, chi phí chăm sóc điều trị rất tốn kém.
– Những năm gần đây, rất nhiều tiến bộ về nghiên cứu y sinh học, cải tiến về hệ thống y tế trong việc dự phòng, điều trị và hệ thống cấp cứu hiện đại đã giúp chúng ta chống lại bệnh tật nói chung và bệnh lý tim mạch nói riêng.
– Dù có những tiến bộ như trên, gánh nặng về điều trị bệnh lý tim mạch hiện nay vẫn gia tăng nhanh chóng hơn khả năng của chống lại bệnh tật của toàn nhân loại. Điều này là do sự gia tăng quá mức tình trạng béo phì, thói quen lười hoạt động, chế độ ăn uống không hợp lý, bệnh lý tăng huyết áp và sự gia tăng đáng báo động của bệnh lý đái tháo đường.
– Tại Việt Nam, những bệnh nhân bị bệnh tim mạch vẫn chưa hiểu rõ bệnh tình của họ về cả yếu tố nguy cơ, phòng ngừa, cách thức điều trị. Do đó, một khi có nguy cơ bị bệnh cũng chưa biết cách hạn chế các yếu tố nguy cơ đó. Khi bị bệnh cũng chưa biết và chưa được tư vấn đầy đủ để có thể chọn lựa phương pháp điều trị phù hợp. Từ đó đặt ra vấn đề của hệ thống y tế trong việc tuyên truyền giáo dục sức khỏe một cách hiệu quả, thường xuyên, liên tục nhằm nâng cao hiểu biết của bệnh nhân mắc bệnh tim mạch.
Những bệnh lý được điều trị bằng tim mạch can thiệp
Có rất nhiều bệnh lý có thể được chẩn đoán và điều trị dựa vào can thiệp nội mạch. Dưới đây là một số bệnh lý tiêu biểu thường gặp:
– Bệnh lý động mạch vành, nhồi máu cơ tim, thiếu máu cơ tim có thể điều trị bằng TMCT như nong động mạch vành bị hẹp và đặt giá đỡ (stent mạch vành).
– Bệnh lý van tim như: nong van tim bị hẹp, thay van động mạch chủ qua da cho những bệnh nhân bị hẹp van động mạch chủ nặng, hay thủ thuật clip van 2 lá trong điều trị hở van 2 lá.
– Một số bệnh tim bẩm sinh như thông liên nhĩ, thông lên thất hoặc còn ống động mạch.
– Ngoài ra, TMCT còn điều trị một số bệnh mạch máu ngoại biên khác như hẹp động mạch cảnh, hẹp động mạch dưới đòn, hẹp động mạch chi, động mạch thận, động mạch mạc treo, hẹp eo động mạch chủ….
– Bít tiểu nhĩ trong điều trị phòng ngừa thuyên tắc huyết khối từ tim ở bệnh nhân rung nhĩ.
– Đặt stent điều trị phình động mạch chủ ngực, bụng, bóc tách động mạch chủ bụng.
Những tiến bộ
Tiến bộ trong điều trị bệnh động mạch vành (ĐMV):
Có lẽ đây là bệnh lý khá phổ biến nên cũng có nhiều tiến bộ nhất.
Can thiệp ĐMV qua da (nong và/hoặc đặt stent) động mạch vành có thể không còn là vấn đề mới mẻ nữa vì chúng đã được thực hiện một cách thường quy và góp phần cải thiện đáng kể tiên lượng bệnh cũng như phát triển một ngành mới trong tim mạch. Hiện tại, nhiều bệnh viện trong cả nước đã thực hiện được kỹ thuật này và phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, cùng với thời gian đã có nhiều tiến bộ, cải tiến đáng kể trong việc can thiệp động mạch vành với những thiết bị ngày một tinh vi, an toàn và hiệu quả hơn.
Stent là một khung đỡ bằng kim loại không gỉ chịu được sự mài mòn và oxy hóa cao được đặt vào trong lòng mạch vành – mạch cấp máu cho cơ tim, nhằm mục đích khai thông lòng mạch vành bị hẹp hoặc tắc nghẽn hoàn toàn. Stent có rất nhiều loại stent thường, stent phủ thuốc và stent tự tiêu. Việc nghiên các stent phủ thuốc thế hệ mới làm giảm đáng kể tỉ lệ tái hẹp trong stent.
Một số thách thức khác trong can thiệp ĐMV như huyết khối, tổn thương cứng, vôi hóa, tổn thương lỗ vào ĐMV đã có những tiến bộ kỹ thuật giải quyết:
– Việc dùng thiết bị hút cục máu đông trong lòng ĐMV giúp làm thông thoáng lòng ĐMV, đặc biệt trong trường hợp can thiệp nội mạch cấp có nhiều huyết khối vì các biện pháp nong hoặc đặt stent thông thường tỏ ra bế tắc. Đối với những tổn thương ĐMV cứng và vôi hóa có thể dùng thiết bị khoan khá mảng xơ vữa (rotablator) để làm rộng lòng mạch.
Sử dụng hình ảnh học trong chẩn đoán và và giúp tối ưu việc điều trị can thiệp đặt giá đỡ mạch vành như siêu âm nội động mạch vành (IVUS), chụp cắt lớp quang học (OCT). Ngoài việc giúp việc can thiệp mạch vành đạt kết quả tối ưu, các phương pháp hình ảnh học này còn giúp đánh giá sang thương chính xác nhằm giảm thiểu các biến chứng cho bệnh nhân trong quá trình làm thủ thuật tim mạch can thiệp.
Tiến bộ trong điều trị các bệnh van tim:
Những tiến bộ nổi bật nhất phải kể đến trong bệnh lý van tim là những kỹ thuật can thiệp qua da.
Nong van hai lá bằng bóng Inoue qua da đã trở thành phương pháp điều trị được lựa chọn hàng đầu cho bệnh nhân bị hẹp van hai lá. Bằng quả bóng đặc biệt luồn từ tĩnh mạch đùi phải lên nhĩ phải xuyên qua vách liên nhĩ để sang nhĩ trái và thất trái đã giúp nong tách rộng hai mép van bị hẹp ở bệnh nhân hẹp van 2 lá khít hậu thấp.
Thay van động mạch chủ và động mạch phổi qua da theo đường ống thông từ đường mạch máu lớn ở đùi đưa lên đang là vấn đề khá thời sự hiện nay. Nhóm của GS. Cribier cũng đã thực hiện được trên một số bệnh nhân ban đầu và cho kết quả rất đáng khích lệ. Từ động mạch hoặc tĩnh mạch đùi, van nhân tạo (dạng stent nằm trên quả bóng) được đưa lên qua đường ống thông đến vị trí yêu cầu (van động mạch phổi hoặc chủ), sau đó bóng có gắn van được bơm căng lên để van tim cố định tại chỗ và cho xẹp bóng để lại van tại vị trí cần đặt. Đây là một hướng điều trị rất khả quan trong tương lai cho bệnh nhân bị bệnh van tim mà không cần phải mổ.
Sửa van hai lá qua đường ống thông cũng đang được thử nghiệm ở một số trung tâm tim mạch trong nước. Qua ống thông đưa thiết bị lên để kẹp hai mép van trong trường hợp hở van hai lá nhiều. Cũng có tác giả qua đường ống thông đưa một thiết bị lên để luồn một vòng van nhân tạo quanh xoang vành làm co nhỏ vòng van hai lá lại để cho đỡ hở van hai lá.
Tiến bộ trong điều trị một số bệnh tim bẩm sinh:
Bệnh tim bẩm sinh vẫn rất thường gặp trong đời sống xã hội, với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, rất nhiều bệnh tim bẩm sinh đã được phát hiện kịp thời và được chữa trị một cách rất hiệu quả, trong nhiều trường hợp có thể khỏi hoàn toàn.
Đóng thông liên nhĩ bằng dụng cụ Amplatzer qua đường ống thông: Đây là một loại thiết bị đặc biệt bằng lưới kim loại Nitinol nhớ hình, có hình dáng hai dù áp vào nhau và nối với nhau bởi một eo. Khi đưa vào thì dụng cụ đã được thu vào trong ống thông. Từ tĩnh mạch đùi phải đưa ống thông lên qua lỗ thông liên nhĩ để sang nhĩ trái. Qua đó đẩy dù lên và mở cánh phía nhĩ trái trước sau đó kéo lại mắc vách liên nhĩ và mở tiếp cánh còn lại bên nhĩ phải để ép lại và đã đóng kín vách liên nhĩ. Phương pháp này giúp tránh được cuộc mổ trên tim hở mà vẫn cho kết quả tương tự như nhiều nghiên cứu trên thế giới.
Đóng ống động mạch trong bệnh còn ống động mạch bằng dụng cụ Amplatzer hoặc bằng coil cũng gần giống nguyên tắc trên nhưng dụng cụ có hình dáng khác để phù hợp với ống động mạch. Đóng lỗ thông liên thất phần màng bằng dụng cụ Amplatzer có phức tạp hơn và đang trong giai đoạn thử nghiệm. Đây cũng là phương pháp hứa hẹn nhiều triển vọng và mang lại lợi ích đáng kể cho người bệnh.
Kỹ thuật tiêm cồn vào động mạch nuôi vách liên thất
Một số bệnh lý bẩm sinh khác cũng có thể được điều trị qua đường ống thông khá hiệu quả như: nong van động mạch phổi bị hẹp qua da, nong van động mạch chủ bị hẹp qua da, nong hẹp eo động mạch chủ, đóng một số lỗ rò bất thường của động mạch vành hoặc các động mạch khác cúng theo đường ống thông mà không cần phải mổ…
Đối với bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn, trước đây thường phải mổ khoét vách liên thất với nhiều biến chứng phức tạp. Nay có thể làm mỏng vách liên thất bằng cách tiêm cồn vào nhánh động mạch vành nuôi vách liên thất một cách chọn lọc qua đường ống thông. Phương pháp này rất ít xâm lấn hơn mổ và cho kết quả rất khả quan.
BS.CKI. Vũ Hoàng Vũ