Các bệnh truyền nhiễm thường gặp

Do đặc điểm lứa tuổi, điều kiện sinh hoạt, học tập tập thể
cùng các nguy cơ rình rập khiến các em học sinh dễ mắc các bệnh truyền nhiễm.

Bệnh tiêu chảy cấp tính

Bệnh tiêu chảy cấp tính là loại bệnh thường gặp ở trẻ em lứa
tuổi mầm non và những năm đầu cấp tiểu học. Bệnh gây tử vong cao do trẻ  bị mất nước và các chất điện giải.

Nguyên nhân

Bệnh tiêu chảy cấp tính thường có nguyên nhân do thức ăn
không phù hợp hoặc do nhiễm khuẩn thực phẩm.

Do người mẹ thiếu sữa hoặc trẻ bị cai sữa sớm nên phải ăn
những thức ăn không thích hợp như ăn bột sớm, bột đặc, ăn nhiều hoặc các thành
phần protein, lipit, cacbonhydrat… trong thức ăn không phù hợp với tuổi của
trẻ.

Do dinh dưỡng không tốt dẫn đến tiêu chảy. Tiêu chảy là
nguyên nhân gây suy dinh dưỡng và suy dinh dưỡng lại làm cho tiêu chảy
tăng  thêm.

Virut rota là tác nhân chính gây tiêu chảy nặng và đe doạ
đến tính mạng của trẻ dưới 2 tuổi.

Do vi khuẩn tại ruột: Các vi khuẩn này gây bệnh qua thực
phẩm và các dụng cụ cho trẻ ăn, uống. Bệnh cũng có thể lây qua bàn tay bẩn ở
những người phục vụ trẻ.

Các vi khuẩn thường gặp là trực khuẩn E.coli đường ruột,
trực khuẩn lỵ, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn thương hàn.

Do nhiễm khuẩn ngoài đường ruột: trẻ có thể bị tiêu chảy sau
khi viêm mũi, họng, viêm tai giữa, viêm phổi sau khi bị sởi hay ho gà.

Ngoài ra những yếu tố thuận lợi gây bệnh tiêu chảy cấp do
điều kiện vệ sinh môi trường kém, khí hậu nóng, ẩm tạo điều kiện cho các vi
sinh vật gây bệnh phát triển.

Những trẻ bị suy dinh dưỡng dễ dàng mắc bệnh tiêu chảy và
bệnh sẽ kéo dài hơn, tỷ lệ tử vong cao.

Biểu hiện của bệnh

 Tiêu chảy xuất hiện
đột ngột, trẻ đi phân lỏng nhiều nước, số lần đi nhiều hơn 3 lần trong 24 giờ,
thường kéo dài 1 tuần.

Nôn thường xuất hiện đầu tiên trong trường hợp tiêu chảy do
virut Rota hoặc tiêu chảy do tụ cầu. Nôn liên
tục hoặc vài lần làm cho trẻ bị mất nước và chất điện giải. Biếng ăn có thể
xuất hiện sớm hoặc sau khi trẻ bị tiêu chảy nhiều ngày. Trẻ thường chán ăn, chỉ
thích uống nước.

Trẻ hay quấy khóc, vật vã, đôi khi co giật, hoặc mệt lả nằm
li bì. Có thể trẻ còn bị khóc do nhiễm khuẩn.

Mất nước do tiêu chảy là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tử
vong. Có 3 biểu hiện của sự mất nước ở trẻ bị tiêu chảy cấp:

Mất nước nhẹ: cân nặng của trẻ giảm dưới 5% trọng lượng cơ
thể. Nhưng chưa có biểu hiện khát nước, môi chưa khô, mắt không bị trũng.

Mất nước vừa: cân nặng của trẻ giảm từ 5% đến 9% trọng lượng
cơ thể. Trẻ khát nước nhiều, người vật vã, mắt trũng, miệng khô, da mất tính
đàn hồi, thở nhanh.

Mất nước nặng: trẻ khát nước nhiều, người lờ đờ, mệt mỏi.
Mạch đập nhanh, hạ huyết áp.

Các biện pháp phòng bệnh

Đề phòng trẻ mất nước khi tiêu chảy: nếu thấy trẻ đi tiêu
chảy toé 2- 3 lần trong ngày, cần cho trẻ uống oresol để bù nước và điện giải.

Chế độ dinh dưỡng: Với trẻ nhỏ cần phải cho bé bú ngay từ
khi mới sinh,   đến 6 tháng tuổi cho trẻ
ăn bổ sung, thức ăn phải đảm bảo đủ chất dinh dưỡng, tỷ lệ phải thích hợp với
độ tuổi.

Vệ sinh trong vấn đề ăn uống: Dụng cụ chế biến và thức ăn
phải sạch sẽ, tráng nước sôi trước khi cho trẻ dùng. Các loại quả phải được rửa
sạch, gọt vỏ, bóc vỏ…

 Vệ sinh môi trường:
Nhà trường phải có nguồn nước sạch để phục vụ ăn uống và sinh hoạt cho học
sinh, khu vệ sinh của trường phải có đủ hố tiểu, hố tiêu, không để học sinh
phóng uế bừa bãi… Rác phải để đúng nơi quy định tránh gây ô nhiễm.

Các bệnh truyền nhiễm thường gặp 1Bệnh truyền nhiễm có thể lây qua bàn tay bẩn.

Bệnh viêm gan A

Bệnh viêm gan A là một loại bệnh truyền nhiễm có thể gây
thành dịch với chiều hướng xảy ra theo chu kỳ. Bệnh có xu hướng tăng dần theo
lứa tuổi và thường xảy ra ở lứa tuổi học sinh nhỏ tuổi (tiểu học) và lứa tuổi
vị thành niên. Mọi người đều có tính cảm nhiễm đối với bệnh. Tính miễn dịch đặc
hiệu được tạo thành sau khi mắc bệnh và có thể tồn tại suốt đời.

Vì sao mắc bệnh viêm gan A

Bệnh chỉ xuất hiện như là một nhiễm trùng mới, cấp tính,
bệnh diễn biến từ vài tuần đến vài tháng và ít để lại những di chứng trầm trọng
như xơ gan hay ung thư gan. Chúng lây qua đường tiêu hoá do ăn uống các loại
thực phẩm, nước ô nhiễm…

Nếu một người nhiễm virut viêm gan A, làm công việc nấu ăn,
phục vụ ăn uống trong bếp ăn tập thể… khả năng lây lan bệnh rất nhanh. Mọi
người có thể nhiễm virut  do ô nhiễm uống
nước, do tiếp xúc với người bị nhiễm bệnh… Bệnh lây lan rất nhanh trước khi các
triệu chứng xuất hiện nên khó phát hiện để phòng tránh.

Sau khi bị nhiễm virut 2- 3 tuần bệnh nhân xuất hiện các
triệu chứng: mệt mỏi, buồn nôn, nôn, đau bụng hay có cảm giác khó chịu ở bụng,
chán ăn, sốt nhẹ, vàng da và mắt, đau cơ, ngứa…

Phòng bệnh thế nào?

Thực hiện tốt vệ sinh chung và vệ sinh cá nhân, đặc biệt rửa
tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh; Thực hiện ăn chín, uống sôi; cung cấp
và sử dụng nước sạch, xử lý hệ thống rác và nước thải; những loại sò, trai,
hến, tôm cua,  ốc… ở những vùng nhiễm bẩn
cần được đun sôi hoặc hấp chín trước khi ăn; khu nhà trẻ, mẫu giáo cần tuân thủ
các quy tắc vệ sinh; tiêm phòng là phương pháp hữu hiệu nhất trong việc phòng
bệnh viêm gan siêu vi A: Vaccine phòng viêm gan siêu vi A tiêm cho trẻ từ 2
tuổi trở lên, thông thường tiêm 2 lần, mỗi lần cách nhau 6 đến 12 tháng (94% –
100% sẽ được miễn nhiễm một tháng sau mũi tiêm đầu tiên, nếu được tiêm mũi thứ
2 kết quả sẽ tốt hơn).

Người đã nhiễm virut viêm gan A  chưa khỏi, không nên chế biến, nấu nướng thức
ăn cho gia đình hoặc nơi tập thể. Rửa tay bằng xà phòng trước khi chuẩn bị nấu
nướng hay ăn uống. Không dùng chung bát, đũa, khăn mặt, hay bàn chải đánh răng
với người bệnh.. Không tắm ở nơi có nguồn nước bị ô nhiễm. Tại các vùng lũ lụt
cần vệ sinh tốt nơi chứa nước sinh hoạt, tẩy uế và cho thuốc sát khuẩn. Chỉ sử
dụng nước đã khử khuẩn cho sinh hoạt và nấu ăn.

 Bệnh chân- tay-miệng

Bệnh chân – tay – miệng là bệnh truyền nhiễm có thể gây
thành dịch. Bênh xảy ra quanh năm nhưng thường hay gặp vào mùa hè, mùa thu.
Bệnh chủ yếu xảy ra với trẻ em dưới 10 tuổi, cũng có thể gặp ở cả người lớn.
Mọi người đều có nguy cơ nhiễm bệnh, nhưng không phải ai nhiễm cũng phát bệnh.
Trẻ nhỏ, trẻ em và thiếu niên rất dễ nhiễm và rất dễ phát bệnh vì chúng có ít
kháng thể.

Những yếu tố gây bệnh

Bệnh do virut thuộc nhóm enteroviruses (vi trùng đường ruột)
gây ra. Bệnh lây từ người sang người do tiếp xúc trực tiếp với nước mũi, nước
bọt, mụn, phân của người nhiễm. Tuần đầu tiên của người bệnh dễ lây sang người
khác.

Khi bị nhiễm virut bệnh thường ủ từ 3- 5 ngày. Biểu hiện sớm
nhất của bệnh là sốt nhẹ, chán ăn, mệt mỏi. Đặc biệt bệnh rất dễ nhầm với các
bệnh khác như viêm da bọng nước, thuỷ đậu. Trong 1-2 ngày có nốt hồng ban đường
kính vài milimet nổi trên nền da, sau đó trở thành bọng nước thường xuất hiện ở
lòng bàn tay, cẳng tay, lòng bàn chân, cẳng chân. Ở miệng có dạng vết loét,
thường ở trong miệng, ở trên lưỡi hay ở vòm miệng làm trẻ nuốt đau. Trong giai
đoạn diễn biến, khi virut gây bệnh xâm nhập hệ thần kinh trung ương, sẽ xuất
hiện triệu chứng rối loạn tri giác, như lơ mơ, li bì mê sảng hay co giật. Nếu
được điều trị kịp thời sẽ phục hồi nhanh nhưng sau đó vẫn còn những rối loạn
tâm thần kinh kéo dài. Nếu không được điều trị bệnh cũng có thể ảnh hưởng đến
tính mạng.

Cần làm gì để có biện pháp phòng bệnh?

Hiện nay chưa có biện pháp phòng bệnh và điều trị đặc hiệu.
Cần thực hiện tốt các biện pháp vệ sinh cá nhân sau:

Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng.

Chăm sóc trẻ bị nhiễm không ôm hôn, hay ăn, uống chung bát,
đĩa, cốc.

Để giảm nguy cơ nhiễm trùng da, niêm mạc cần cho trẻ súc
miệng, tắm nước ấm, lau rửa nhẹ nhàng, tránh làm vỡ bọng nước hay trầy xước da,
thay quần áo sạch hàng ngày.

Ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, uống nhiều nước như nước
sôi để nguội, nước hoa quả, nước cháo…

Không cần kiêng gió, không đắp lá cây vì sẽ gây nhiễm trùng
da.

Cần đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế khi có những dấu hiệu bệnh
nặng như: sốt cao, rối loạn tri giác, co giật, bọng nước có mủ máu.

ThS. Lưu Minh Quân – ThS. Vũ Minh Châu – BS. Minh Anh

Rate this post