Theo YHCT, nếu khi đau khi không và đau âm ỉ là do nội thương; nếu kèm theo triệu chứng: lưng gối đau mỏi, xây xẩm hoặc có di tinh, lưỡi đỏ, mạch tế sác là do thận khí suy tổn.
Người bệnh có biểu hiện ù tai, đau trống rỗng, mất ngủ hay quên, hoa mắt chóng mặt, lưng gối yếu mỏi, di tinh đới hạ, ngấy sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, người gầy, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác hoặc huyền tế vô lực.
Phụ tử (rễ củ con của cây ô đầu).
Đau đầu do thận âm hư: Người bệnh thấy đầu đau trống rỗng, ù tai hoa mắt chóng mặt, lưng gối yếu mỏi, mất ngủ hay quên, di tinh đới hạ, ngũ tâm phiền nhiệt, ngấy sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, người gầy lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác hoặc huyền tế vô lực. Phép chữa: Tư bổ thận. Dùng bài thuốc:
Bài 1: Kỷ cúc địa hoàng hoàn: thục địa 32g, sơn thù 16g, hoài sơn 16g, đơn bì 12g, phục linh 12g, trạch tả 12g, cúc hoa 12g, kỷ tử 12g. Sắc uống.
Gia giảm: Lưng gối đau mỏi, thêm đỗ trọng 12g, ngưu tất 10g; nam di tinh, nữ đới hạ, thêm tri mẫu 12g, hoàng bá 10g; ngũ tâm phiền nhiệt, triều nhiệt, ra mồ hôi trộm, thêm địa cốt bì 12g, quy bản 12g, long cốt 16g, mai mực 16g; hoa mắt ù tai, thêm ngũ vị tử 8g, từ thạch 12g, thiên ma 12g, trân châu mẫu 12g.
Bài 2: bột sừng nai 20g, thục địa 20g, mẫu lệ 12g, lá sen 16g, cúc hoa 16g, quy bản 16g, mạch môn 12g, mật ong vừa đủ. Sừng nai cắt khúc, bọc bằng cám nếp ẩm, nướng trên bếp khoảng 40 phút, sao cho sừng bở ra là được, đập vụn, bỏ cám; quy bản cạo hết màng trong, đập vỡ, tẩm giấm thanh 2-3 giờ, sao vàng sẫm. Tán bột, luyện với mật ong làm viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-15g.
Bài 3: ngọc trúc 24g, bạch thược 24g, câu đằng 12g, sơn thù 10g, long cốt 15g, mẫu lệ 15g, toàn yết 6g, quất lạc 6g. Sắc uống. Tác dụng tư bổ can thận, tức phong hòa lạc. Chữa đau đầu do can thận âm tinh bất túc, hư phong thượng nhiễu thanh không.
Châm cứu (châm bổ) hoặc day bấm các huyệt: thái khê, thái uyên, thận du, chí thất; cứu bổ: quan nguyên.
Nhục quế.
Đau đầu do thận dương hư: Đầu đau sợ lạnh, ấm thì giảm đau, sắc mặt trắng nhợt, lưng gối vô lực, chân tay lạnh, đại tiện lỏng, tiểu ít phù thũng, chất lưỡi nhạt bệu ít rêu, mạch trầm tế nhược, nhất là mạch xích bất túc. Phép chữa: Ôn bổ thận dương. Dùng bài thuốc:
Bài 1: Thận khí hoàn: thục địa 32g, sơn thù 16g, hoài sơn 16g, đơn bì 12g, phục linh 12g, trạch tả 12g, phụ tử 4g, nhục quế 4g. Sắc uống.
Gia giảm: Lưng gối yếu mỏi, thêm tục đoạn 12g, cẩu tích 12g; đầu ngón chân ngón tay không ấm, thêm tế tân 3g, can khương 8g; đại tiện lỏng, thêm nhục đậu khấu 12g, ngũ vị tử 8g; phù thũng, tiểu ít, thêm xa tiền tử 12g, ngưu tất 16g; dương nuy, thêm dâm dương hoắc 12g, ba kích 12g.
Bài 2: bột sừng nai 20g, thục địa 20g, mẫu lệ 12g, lá sen 16g, cúc hoa 16g, ba kích 12g, nhục quế 4g, mật ong vừa đủ. Sừng nai cắt khúc, bọc bằng cám nếp ẩm, nướng trên bếp khoảng 40 phút, sao cho sừng bở ra là được, đập vụn, bỏ cám. Tán bột, luyện với mật ong làm viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-15g.
Bài 3: củ mài sao vàng 20g, khiếm thực sao vàng 20g, dây tơ hồng sao vàng 20g, đậu đen sao chín 40g, cúc hoa 20g, thục địa 40g. Sắc uống.
Châm cứu (châm bổ) hay day bấm các huyệt: thái khê, thái uyên, mệnh môn.
Vị trí huyệt:
Thái khê: tại trung điểm giữa đường nối bờ sau mắt cá trong và mép trong gân gót, khe giữa gân gót chân ở phía sau.
Thái uyên: trên lằn chỉ ngang cổ tay, nơi chỗ lõm trên động mạch tay quay, dưới huyệt là rãnh mạch tay quay.
Thận du: dưới gai sống thắt lưng 2, đo ngang ra 1,5 tấc, ngang huyệt mệnh môn.
Chí thất: dưới gai sống thắt lưng 2, ngang ra 3 tấc, cách thận du 1,5 tấc.
Quan nguyên: thẳng dưới rốn 3 tấc, trên bờ xương mu 2 tấc.
Mệnh môn: ở chỗ lõm dưới đầu mỏm gai đốt sống thắt lưng 2.
BS. Tiểu Lan