Lá sung đang xanh tốt thường bị một số loài sâu sống ký sinh làm cho mặt lá đang phẳng và nhẵn trở nên sần sùi, nổi lên những cục hoặc mụn nhỏ, thường gọi là vú sung. Người ta gọi những lá đó là lá sung vú hoặc lá sung có tật, sung cóc, lá vã… Lá sung tật được coi là tốt hơn lá sung thường. Có thể dùng lá sung vú trong những trường hợp sau:
Thuốc lợi sữa: lá sung tật 100g, chân giò lợn 1 cái, quả mít non 50g, quả đu đủ non 50g, lõi thông thảo 10g, hạt muồng để sống 5g, gạo nếp 100g. Tất cả thái nhỏ, hầm nhừ thành cháo, chia ăn 1-2 lần trong ngày. Dùng 3-5 ngày.
Lá sung vú (lá sung có tật).
Chữa gan nóng, vàng da: lá sung tật 30g, nhân trần 30g, kê huyết đằng 20g, rau má 50g, sâm đại hành 20g. Sắc uống thay trà hàng ngày.
Chữa sốt, cúm đau nhức: lá sung tật 16g, lá chanh 16g, nghệ 16g, tỏi 6g. Sắc lấy nước đặc uống. Nếu mồ hôi ra nhiều thì uống nguội, ngược lại thì uống nóng, rồi đắp chăn cho ra mồ hôi, lau sạch.
Thuốc bổ dùng cho người mới ốm dậy, kém ăn, mất ngủ: lá sung tật 200g, củ mài, hạt sen, đẳng sâm, thục địa, hà thủ ô, táo nhân, ngải cứu, mỗi vị 100g. Lá sung phơi trong râm cho khô, tán bột, củ mài đồ chín, sao vàng, tán bột. Thục địa tẩm nước gừng, sao thơm, giã nhuyễn. Ngải cứu tươi nấu kỹ lấy nước đặc. Hà thủ ô tẩm nước đậu đen, sao kỹ, tán bột. Tảo nhân sao đen, tán bột. Hạt sen, đẳng sâm, đều sấy khô, tán bột. Tất cả trộn đều, thêm mật hoàn viên, sấy khô. Ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 6-12g;
Chữa nổi cục đỏ ở lưng ngực, có đau và sốt: lá sung tật 40g, huyền sâm, huyết giác, ngưu tất, mỗi vị 20g. Tất cả thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, chia 2 lần, uống trong ngày.
Thuốc dùng ngoài:
Chữa bị thương, bong gân, sai khớp: lá sung tật, lá bàng, lá mua, lá cỏ xước, lá cứt lợn, giã nhỏ, thêm ít rượu và đắp vào chỗ đau.
Chữa tưa lưỡi: lá sung tật phối hợp với lá mít, lượng bằng nhau, phơi khô, đốt cháy, tán mịn, hòa với mật ong, bôi ngày 3 lần.
Chữa bỏng: lá sung tật sao vàng, tán bột, trộn đều với mỡ chó (liều lượng bằng nhau) bôi nhiều lần trong ngày.
DS. Đặng Văn Nam