Hai vị tần bì và trần bì xuất hiện phổ biến trong các phương thuốc cổ truyền và đều có bán trên thị trường nước ta. Nhiều người cho rằng hai vị này là một – là “trần bì”. Thực ra, đây là hai vị Đông dược có nguồn gốc xuất xứ và tác dụng khác hẳn nhau.
Tần bì họ nhài (Oleaceae), trần bì họ cam (Rutaceae). Tần bì là vỏ cành, vỏ cây; trần bì là vỏ quả. Tần bì thuộc nhóm thanh nhiệt táo thấp, chủ yếu dùng trị lỵ và táo kết đại tràng, còn trần bì thuộc nhóm hành khí, chủ yếu dùng trị trướng khí, khí trệ. Về công dụng cơ bản là khác nhau. Tuy nhiên, chúng đều có thể dùng trị viêm phế quản. Mặt khác, tên gọi “na ná” rất dễ làm cho một số người lầm hai vị là một.
Vị thuốc tần bì là vỏ khô của cành và thân cây tần bì.
Tần bì (còn gọi tần bạch bì): là vỏ thân hoặc vỏ cành của cây tần bì (Fraxinus rhychophylla Hance.), hoặc đồng danh (Fraxinus chinensis Roxb.), họ nhài (Oleaceae). Tần bì xuất xứ ở Trung Quốc và nhập vào Việt Nam. Mùa xuân, thu, người ta bóc lấy vỏ thân, hoặc vỏ cành cây tần bì đem phơi khô hoặc sấy khô để làm thuốc. Về mặt hóa học, tần bì chứa các thành phần saponin, coumarin, tanin… Nước sắc tần bì có tác dụng ức chế lỵ trực khuẩn, trực khuẩn phó thương hàn, song cầu khuẩn viêm phổi. Tác dụng ức chế rất tốt với liên cầu khuẩn nhóm A. Glycosid toàn phần của tần bì có tác dụng với lỵ trực khuẩn, cải thiện tuần hoàn huyết dịch. Tần bì còn có tác dụng chống viêm, chỉ ho, trừ đờm, giảm đau.
Theo Đông y, tần bì vị đắng, chát, tính hàn. Quy kinh can, đởm, đại tràng; có công năng thanh nhiệt táo thấp, thu liễm, minh mục. Liều dùng chung từ 6 – 12g. Tần bì trị một số chứng bệnh:
Trị lỵ: tần bì, hoàng bá mỗi vị 6g, sắc uống ngày một thang.
Trị đại tràng táo kết: tần bì, đại hoàng, mỗi vị 6g, sắc uống ngày 1 thang.
Trị viêm phế quản: dùng viên nén tần bì, mỗi viên chứa 0,3g cao chế từ tần bì; mỗi lần uống 2 viên, ngày 2 lần.
Trị ngứa, sần da (ngưu bì điến dẫn đến da bị ngứa và dầy lên như da trâu): tần bì 30g, nấu nước rửa hàng ngày.
Trần bì là vỏ khô của quả quýt.
Trần bì (Pericarpium Citri reticulatae perenne) là vỏ quả chín đã phơi khô hoặc sấy khô và để lâu năm của cây quýt (Citrus reticulata Blanco), họ cam (Rutaceae). Trước khi dùng, rửa sạch thật nhanh để tránh vị thuốc bị làm nát do nước. Để ráo nước rồi bóc bỏ các màng trắng ở bên trong. Thái chỉ, sao vàng hoặc sao đen. Trần bì chứa chủ yếu tinh dầu (Oleum Mandarin), các flavonoid, vitamin A, B.
Theo Đông y, trần bì có vị hơi đắng, mùi thơm đặc trưng, có tác dụng kích thích nhẹ vị tràng, làm tăng sự phân tiết dịch tiêu hoá, làm tăng sự bài trừ các khí tích trong ruột, chống loét đường ruột, hạ huyết áp, chống viêm. Nước sắc trần bì còn có tác dụng tăng sức co bóp của tim ếch cô lập, tác dụng giãn động mạch vành tim. Thành phần hesperidin trong trần bì có tác dụng duy trì được tính thẩm thấu bình thường của mạch máu, giảm được tính giòn của mạch và rút ngắn được thời gian chảy máu trên động vật thí nghiệm. Trần bì sống, trần bì chế và tinh dầu trần bì đều có tác dụng chống ho, trừ đờm trên động vật thí nghiệm.
Theo YHCT, trần bì có vị đắng, cay, tính ấm, vào 2 kinh tỳ, phế. Có tác dụng hành khí, hoà vị, chỉ nôn, chỉ tả, hoá đàm ráo thấp, chỉ ho. Liều dùng chung 4 – 12g. Trần bì trị một số chứng bệnh:
Trị đau bụng do lạnh: trần bì phối hợp với can khương, thương truật, tô diệp, nam mộc hương, hậu phác mỗi vị 10 – 12g, sắc uống.
Trị ợ hơi, ngực bụng đầy trướng, đau, buồn nôn: trần bì phối hợp với bạc hà, tô diệp, sinh khương, hoàng liên, mộc hương mỗi vị từ 10 – 12g, sắc uống.
Trị ho, đờm nhiều, dính, bứt rứt trong lồng ngực, tiêu hóa kém: trần bì, bán hạ (chế), bạch linh, cam thảo mỗi vị 10g, sắc uống.
Trị các bệnh khí trệ, huyết ứ, gây đau đớn cơ nhục, bế kinh, đau bụng kinh, đau dạ dầy, ruột…: trần bì phối hợp với hương phụ, ích mẫu, nga truật…
Trị viêm tuyến vú cấp tính: trần bì 30g, cam thảo 6g, sắc uống.
GS.TS. Phạm Xuân Sinh