Theo sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của cố giáo sư Đỗ Tất Lợi:
Cỏ mực còn có tên là cây cỏ nhọ nồi, hạ liên thảo, thuộc nhóm các cây thuốc và vị thuốc cầm máu. Theo tài liệu cổ, cỏ mực vị ngọt, chua, tính lương vào 2 kinh can và thận, tác dụng bổ thận âm, chỉ huyết lỵ. Dùng chữa can thận âm kém, lỵ, đại tiện ra máu, làm đen râu tóc. Nhân dân dùng cây cỏ mực giã vắt nước uống để cầm máu trong rong kinh, trĩ ra máu, bị thương chảy máu. Còn dùng chữa ho, hen, viêm họng…
Hạt đậu đen: Cũng theo sách này thì đậu đen thuộc các cây thuốc và vị thuốc thông tiểu tiện và thông mật. Theo Đông y, những vị thuốc chế với đậu đen có tác dụng bổ thận thủy. Liều dùng 20 – 40g có thể hơn. Đậu đen được nhân dân trồng nhiều dùng làm thực phẩm nấu xôi, nấu chè. Đậu đen có 2 loại (loại lòng trắng và loại xanh lòng), loại xanh lòng còn gọi đậu đen nếp ăn ngon và dùng làm thuốc cũng tốt hơn. Đậu đen được dùng trong Đông y để chế thuốc như nấu với hà thủ ô, làm cho vị thuốc có màu đen.
Đỗ đen
Như vậy, 2 loại thảo dược này đều bổ thận và không hề kỵ nhau nên bạn có thể yên tâm sử dụng. Tuy nhiên, đặc tính chung của thuốc Nam là phát huy công dụng chậm. Bởi vậy, người bệnh cần kiên trì uống thuốc đều đặn. Ngoài ra, đậu đen và cỏ mực còn phối hợp với các vị thuốc khác trong điều trị các bệnh như:
Trị tóc bạc sớm: đậu đen (sao thơm) 30g, cỏ mực 20g, thiên môn, thục địa đều 20g, hà thủ ô, đương qui, táo nhân sao đen, tang diệp đều 16g, đỗ trọng, cam thảo đều 10g, táo tàu 6 quả. Sắc uống ngày một thang. Tác dụng bổ thận, đen râu tóc, nhuận da nên những người da khô, tóc bạc sớm nên dùng.
Trị đại tiện ra máu: đậu đen (sao thơm) 30g, cỏ mực 20g, trắc bá diệp, thục địa đều 16g, chi tử 10g, hoa hòe (sao) 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Người đại tiện ra máu dùng tốt.
Cỏ mực
BS Đỗ Minh Hiền