Phòng bệnh còi xương cho trẻ em

Khi trẻ bị bệnh còi xương, ngoài việc làm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển xương còn làm ảnh hưởng đến nhiều bộ phận, cơ quan khác nhau của cơ thể trẻ.

Còi xương là một bệnh thiếu vitamin D ở những trẻ vì bị loạn dưỡng xương hoặc rối loạn chuyển hóa vitamin D. Làm thế nào để cung cấp đủ lượng vitamin D cho trẻ là việc cần được sự quan tâm của người mẹ mang thai và người mẹ đang nuôi con nhỏ.

Bệnh còi xương ở trẻ thể hiện như thế nào?

Bệnh còi xương có liên quan mật thiết với rối loạn chuyển hóa canxi và phốt pho, điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến sự hấp thu vitamin D. Rối loạn hấp thu vitamin D sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển xương của trẻ và ảnh hưởng đến nhiều cơ quan khác trong cơ thể của trẻ như hệ thần kinh, nội tiết, chuyển hóa, tiêu hóa…

 Sữa là nguồn cung cấp vitamin D

Bệnh còi xương thường gặp ở trẻ nhỏ từ 6 – 36 tháng tuổi, vì đây là thời kỳ mà hệ thống xương đang phát triển mạnh. Nguyên nhân còi xương ở trẻ là do trẻ thiếu vitamin D làm cho cơ thể trẻ không hấp thu đủ lượng canxi ở ruột và thiếu canxi trong máu, do đó cơ thể phải tăng sinh nội tiết tố hoócmôn cận giáp trạng dẫn đến giảm tái hấp thu phốt phát ở thận và cũng làm giảm phốt phát trong máu gây nên hiện tượng rối loạn chức năng thần kinh. Do hiện tượng thiếu canxi trong máu cho nên cơ thể có sự tự điều chỉnh bằng cách huy động canxi từ xương đưa vào máu làm cho xương thiếu canxi gây nên còi xương, loãng xương.

Trong thời kỳ đầu thì triệu chứng của bệnh còi xương biểu hiện ở xương chưa rõ rệt mà trẻ thường có biểu hiện về rối loạn thần kinh như hay quấy khóc, giật mình khi ngủ, vã mồ hôi nhiều nhất là lúc trẻ ngủ (mồ hôi trộm). Tóc của trẻ cũng bắt đầu rụng phía hai bên tai, sau gáy mà người ta thường gọi là hiện tượng chiếu liếm hoặc hình vành khăn. Thời kỳ bệnh phát triển rõ rệt thì xương sọ có hiện tượng mềm, thóp rộng và chậm kín (đối với trẻ sơ sinh), có các bướu đỉnh hoặc ở trán gây nên hiện tượng trán nhô ra. Một số biểu hiện khác khá rõ rệt như răng thường mọc chậm, chậm lẫy, chậm bò, chậm đi, hay quấy khóc, ngủ hay giật mình và không đẫy giấc. Trẻ thường biểu hiện ít lanh lợi, sự phát triển về chiều cao cũng như cân nặng kém hơn trẻ cùng lứa tuổi mà không bị còi xương. Trường hợp trẻ bị bệnh còi xương nặng thì khi sờ vào vùng cổ tay và cổ chân có hiện tượng xương gồ lên mà người ta gọi là hiện tượng “vòng cổ tay, vòng cổ chân”. Khi đứng được, đi được thì xương cẳng chân có thể sẽ bị biến dạng mà hậu quả là xương cẳng chân hình chữ X, chữ 0 (chân vòng kiềng) và xương khung chậu bị lệch. Lồng ngực cũng sẽ bị biến dạng bị hẹp (ngực lép hoặc nhô ra). Khi sờ vào các cơ bắp không thấy rắn chắc mà bị nhũn, nhẽo. Về hệ tiêu hóa thường có hiện tượng táo bón. Trong các trường hợp thiếu canxi kéo dài hoặc còi xương cấp tính có thể xuất hiện cơn co gật do thiếu canxi máu gây nên hiện tượng hạ canxi máu cấp tính.

Một số trẻ dễ bị còi xương như trẻ nuôi bằng sữa bò, trẻ sinh đôi hoặc đẻ non (đẻ thiếu tháng), thiếu cân, trẻ suy dinh dưỡng hoặc thậm chí trẻ quá bụ bẫm (do nhu cầu về canxi và phốt pho cao hơn các trẻ bình thương). Đối với trẻ bị mắc bệnh nhiễm trùng kéo dài hoặc bệnh rối loạn tiêu hóa kéo dài cũng có nguy cơ làm cho trẻ còi xương và suy dinh dưỡng.

Nguồn vitamin D lấy từ đâu?

Nguồn cung cấp vitamin D cho trẻ trước tiên phải kể đến do ánh sáng mặt trời là yếu tố hết sức quan trọng. Nhờ có tia cực tím của ánh sáng mặt trời mà vitamin D được được tổng hợp từ chất tiền vitaminD là 7 – dehyrocholesterol ở da trở thành chất cholecalciferol (tức là vitamin D3). Bởi vậy, những trẻ ở trong nhà chật chội, thiếu ánh sáng hay là trẻ sống ở xứ sở có nhiều mây mù thì rất dễ bị còi xương.

Nguồn cung cấp vitamin D cho trẻ còn do chế độ ăn uống của các người mẹ đang mang thai và của chính bản thân trẻ nhỏ. Thực phẩm được khuyến cáo có nhiều vitamin D và can xi như thịt, cá, vừng đen, rau ngót, tép khô, tôm, cua, ốc, lòng đỏ trứng, sữa bò tươi, sữa chua, gan và đặc biệt là sữa mẹ là thực phẩm tốt nhất cho trẻ.

Phòng bệnh còi xương cho trẻ như thế nào?

Chúng ta đã biết trẻ bị còi xương là do thiếu vitamin D và nguồn cung cấp vitamin D cho cơ thể có thể do được cung cấp từ sữa mẹ, sữa bò, dầu cá, thức ăn hoặc từ rau quả và đặc biệt là từ ánh nắng mặt trời. Vitamin D cần thiết cho cơ thể chủ yếu là do tác động của ánh sáng mặt trời dưới tia cực tím. Vì vậy, khi người mẹ đang mang thai và trong thời kỳ cho con bú cần được tắm nắng, tức là người mẹ nên ra khỏi nhà ngày vài lần lúc sáng sớm khi mặt trời vừa mọc và lúc chiều tối khi mặt trời đã hết chói chang (khoảng từ 4 – 5giờ chiều). Đối với trẻ nhỏ cũng rất cần được tắm nắng hàng ngày, mỗi ngày khoảng từ 15 – 20phút (nên để lộ chân, tay, lưng, bụng ra ngoài trời trước 9 giờ sáng). Tuy vậy, không được tắm nắng cho trẻ khi mặt trời đã lên cao, buổi trưa, xế chiều. Ngoài tắm nắng, người mẹ đang mang thai và trẻ cần được dinh dưỡng đủ chất, chọn các loại thực phẩm được khuyến cáo là giàu vitamin D và canxi như: thịt, cá, tôm, cua, ốc, trứng, gan, sữa bò và nhất là sữa mẹ cho nên cần cho trẻ bú sữa mẹ hàng ngày không nên để lãng phí nguồn sữa quý giá này. Cần cho thêm dầu hoặc mỡ vào thức ăn của người mẹ mang thai hoặc thức ăn của trẻ vì vitamin D tan trong dầu mỡ vì vậy dù bữa ăn có đủ các chất giàu vitamin D mà thiếu chất dầu, mỡ thì cũng không đưa lại lợi ích gì. Ngoài ra, người mẹ đang mang thai vào các tháng cuối hoặc trẻ có nguy cơ bị còi xương nên uống thêm dầu cá hoặc uống thêm vitamin D nhưng phải có chỉ dẫn của bác sĩ sản khoa, nhi khoa và tuyệt đối không được lạm dụng vitamin D. Bên cạnh đó thì nhà ở cũng rất cần thoáng, mát và đủ ánh sáng mặt trời.

Đối với trẻ đẻ do thiếu tháng, sinh non, thiếu cân rất cần thiết cho trẻ đi khám bệnh định kỳ để được các bác sĩ chuyên khoa nhi tư vấn chế độ ăn cho trẻ. Những trẻ mắc các bệnh nhiễm trùng kéo dài cần được khám bệnh và điều trị tích cực theo đơn của bác sĩ như: bệnh viêm VA, viêm hô hấp trên, viêm phế quản co thắt, viêm tai…

PGS.TS. BÙI KHẮC HẬU

 

Rate this post