Dấu hiệu của bệnh
Thời kỳ ủ bệnh. Kể từ khi cắt rốn tới khi có dấu hiệu cứng hàm là thời kỳ không có gì báo trước về bệnh uốn ván, thời gian ủ bệnh từ 4-15 ngày, trung bình là 7 ngày, ủ bệnh ngắn bệnh càng nặng.
Thời kỳ khởi phát. Trẻ quấy khóc, bỏ bú, miệng chúm chím lại, trẻ đói nhưng không bú được nên càng khóc, lúc này nếu đè lưỡi ấn xuống thì thấy phản ứng lại đó là dấu hiệu cứng hàm (trismus), thời kỳ khởi phát này nhanh chóng chuyển sang thời kỳ toàn phát (từ vài giờ đến một ngày).
Thời kỳ toàn phát. Bệnh thể hiện rõ ràng, cứng hàm càng rõ, xuất hiện hai triệu chứng chính là cơn co giật và co cứng. Tùy theo mức độ bệnh nặng hay nhẹ mà có cơn co giật hay co cứng mau hay thưa, ngắn hay dài.
Bác sĩ dặn dò sản phụ chăm sóc trẻ sơ sinh đúng cách để phòng ngừa bệnh. Ảnh: TM
Cơn co giật: Xảy ra một cách tự phát hay kích thích (ánh sáng, khám, bế cho ăn) lúc đó nét mặt trẻ nhăn nhúm lại, miệng chúm chím, sùi bọt mép, hai tay nắm chặt. Cơn co giật có thể kéo dài vài phút. Cũng có khi tới 5-6 giờ liền, nếu cơn co giật mạnh liên tục, dễ kèm theo cơn ngừng thở kéo dài 2-3 phút, thậm chí 20-30 phút do cơ thanh quản bị co thắt. Lúc đó tiếng tim đập chậm lại, nếu kéo dài tiếng tim rời rạc, mạch khó bắt, chân tay lạnh, mỗi cơn ngừng thở là một lần có thể đe doạ tính mạng bệnh nhi hoặc dễ bị bội nhiễm và toan hóa máu.
Cơn co cứng cơ: Người trẻ uốn cong, đầu ngả ra sau, hai tay khép chặt, nó thường xuyên hiện sau cơn co giật đầu tiên và kéo dài suốt thời gian trị bệnh. Nếu co giật và co cứng kéo dài hàng phút, đứa trẻ có thể bị chết trong cơn co giật.
Toàn trạng: Nhiệt độ có thể bình thường nhưng thường sốt cao 38-39oC có khi 40-41°C là yếu tố phối hợp làm cơn co giật xảy ra. Tiêu hóa hay bị táo bón. Rốn thường rụng sớm (100%) và nhiễm khuẩn, có thể rốn ướt, có mủ hay thối.
Thời kỳ lui bệnh. Những trẻ qua được tuần thứ hai, thứ ba thường tiến triển tốt dần, cơn co giật, co cứng giảm dần và bệnh nhi bắt đầu mở mắt, khóc được. Trong thời gian này vẫn còn tăng trương lực, sau đó vài ngày bệnh nhi có thể bú mẹ được. Nhưng phải từ 1,5-2 tháng thì trương lực cơ mới trở lại bình thường.
Làm gì khi phát hiện trẻ bị uốn ván?
Khi nghi ngờ trẻ bị uốn ván rốn phải chuyển trẻ đi bệnh viện tuyến trên để điều trị. Để giảm bớt cơn co giật, trong khi di chuyển bệnh nhi y tế cơ sở có thể tiêm thuốc an thần và kháng sinh cho trẻ. Cố gắng di chuyển nhẹ nhàng, tránh tiếng động và ánh sáng làm giảm các cơn co giật.
Phòng tránh bằng cách nào?
Để phòng ngừa uốn ván rốn, cần làm những việc sau đây: Phổ biến cho mọi người hiểu rõ sự nguy hiểm của bệnh, nguyên nhân gây ra bệnh để mọi người hiểu và có ý thức phòng ngừa bệnh, theo đúng các quy tắc vệ sinh khi thai nghén và sinh đẻ. Mọi thai phụ phải định kỳ khám thai và đến đẻ tại trạm y tế, không được đẻ ở nhà. Nữ hộ sinh phải thực hiện nguyên tắc vô khuẩn khi đỡ đẻ. Mọi thai phụ cần tiêm vắc-xin uốn ván. Cụ thể:
Thực hiện vô khuẩn khi đỡ đẻ
Người nữ hộ sinh khi đỡ đẻ, chăm sóc rốn sơ sinh phải rửa tay sạch bằng xà phòng dưới vòi nước chảy hay nước sôi để nguội, sát khuẩn tay bằng cồn hay ngâm tay vào dung dịch sát trùng. Dụng cụ đỡ đẻ phải diệt khuẩn (kéo cắt rốn, chỉ buộc, băng rốn phải được hấp 120oC trong 20 phút hoặc nếu có điều kiện nên dùng gói đỡ đẻ sạch). Không băng rốn quá kín vì cuống rốn dễ giữ ẩm và lâu khô; Không nên cắt dây rốn quá dài chỉ nên cắt cách cuống rốn 2-3cm là đủ. Chú ý trong khi chăm sóc trẻ ở những tuần đầu khi trẻ chưa rụng rốn cần phải giữ gìn băng rốn sạch sẽ, băng bị ướt (do tắm, do thấm nước tiểu) phải thay ngay.
Tiêm phòng vắc-xin uốn ván khi mang thai
Đối với sản phụ cần tiêm đủ 2 mũi vắc-xin. Mũi thứ hai sau mũi thứ nhất một tháng và phải trước khi đẻ ít nhất là 15-30 ngày. Vì người mẹ có thể truyền cho thai nhi lượng miễn dịch chống uốn ván cho đến tháng đầu sau đẻ. Phương pháp này tỏ ra an toàn và có hiệu quả.
Nếu trẻ đẻ trong điều kiện không đảm bảo vô khuẩn, đẻ rơi và người mẹ chưa được tiêm phòng uốn ván trong lúc mang thai thì nên tiêm phòng uốn ván với SAT 1.500 đơn vị, tiêm bắp một lần sau đẻ.
BS. Nguyễn Kim Dung