Điều đáng lưu tâm là, mức độ và cường độ của những hành vi ấu dâm thường tăng theo thời gian. Nhiều cá nhân bị rối loạn Ái Nhi đã có những tưởng tượng hành vi tình dục với trẻ em trong một thời gian dài. Do đó, sự thay đổi là rất khó khăn. Các thầy thuốc có thể cố gắng làm giảm cường độ của những điều họ tưởng tượng nhưng quan trọng là họ phải sẵn sàng thừa nhận họ đang mắc bệnh và tham gia điều trị (nhưng thường họ không chịu thừa nhận!!!).
Có nhiều phương pháp điều trị bệnh ấu dâm: liệu pháp năng động, tâm lý trị liệu, kỹ thuật hành vi, thuốc, và các can thiệp phẫu thuật mang lại các kết quả khác nhau. Quản lý điều trị suốt đời là biện pháp cần thiết và thực tế đã minh chứng phải làm.
Tùy từng trường hợp cụ thể mà điều trị gồm các biện pháp sau:
Tâm lý trị liệu:
- Liệu pháp nhận thức hành vi để sửa đổi những sai lệch tình dục bằng cách thay đổi lối suy nghĩ lệch lạc của bệnh nhân và làm cho họ nhận thức được điều này. Liệu pháp này có thể được sử dụng theo cách tiếp cận 7 bước như sau:
1) Biết kinh tởm hành động ấu dâm.
2) Đương đầu với sự thực này (đặc biệt hiệu quả trong nhóm)
3) Thấu cảm tổn thương của nạn nhân ấu dâm (hiển thị video của nạn nhân và những hậu quả mà tội phạm ấu dâm phải gánh chịu).
4) Rèn luyện ý chí quyết đoán vượt qua thôi thúc cám dỗ của bản thân (bao gồm đào tạo xã hội kỹ năng, quản lý thời gian,…)
5) Phòng ngừa tái phát (xác định tiền đề cho hành vi [tình huống rủi ro cao] và cách phá vỡ những tiền đề)
6) Hệ thống giám sát (trợ giúp từ gia đình và xã hội theo dõi hành vi của bệnh nhân)
7) Quản lý điều trị suốt đời.
Sự kết hợp của các kỹ thuật phòng chống tái phát giúp kiểm soát những hành vi không mong muốn của bệnh nhân bằng cách tránh những tình huống mà có thể tạo ra mong muốn ban đầu là phương pháp đã được chứng minh có hiệu quả trong nhiều trường hợp.
- Cải tạo cực khoái bằng các kích thích tình dục thích hợp hơn. Đầu tiên, bệnh nhân được hướng dẫn thủ dâm. Sau đó, ngay trước khi đạt cực khoái, bệnh nhân được thông báo là tập trung vào một hình ảnh được chấp nhận hơn (Ví dụ: quan hệ giao hợp truyền thống). Quá trình này được lặp đi lặp lại tại các điểm dần dần trước khi đạt cực khoái cho đến khi, cuối cùng, bệnh nhân bắt đầu tưởng tượng của họ với một kích thích thích hợp.
- Đào tạo kỹ năng xã hội và đào tạo kỹ năng quyết đoán vượt qua thôi thúc cám dỗ của bản thân. Nhiều nhóm huấn luyện kỹ năng xã hội cũng dạy giáo dục giới tính cơ bản, rất hữu ích cho các bệnh nhân này.
- Liệu pháp nhóm trong để giúp các cá nhân chia sẻ tình trạng của họ, giúp họ thừa nhận sự lệch lạc tình dục của mình và đồng ý trị liệu, giúp bệnh nhân vượt qua những mặc cảm tội lỗi và xấu hổ liên quan đến lệch lạc tình dục đặc biệt của họ. Mục đích của loại điều trị này là để bệnh nhân có một sự “hối hận khỏe mạnh.” Những bệnh nhân này cần phải điều trị suốt đời để làm giảm khả năng tái phát.
- Liệu pháp hỗ trợ tâm lý, liệu pháp hôn nhân, và liệu pháp gia đình. Nhà trị liệu không nên đặt mục tiêu quá cao không thực tế, nhưng phải vượt qua sự từ chối thì BN mới chấp nhận điều trị sự lệch lạc tình dục này.
- Chương trình Mười hai bước thiết kế cho những người nghiện tình dục để nâng cao nhận thức của BN với sự hỗ trợ của xã hội. Nhóm này cũng tập trung vào rèn luyện ý chí của mỗi cá nhân.
Thuốc có thể có những tác dụng phụ, nên can thiệp thuốc chỉ để ngăn chặn hành vi tình dục. Các nhóm thuốc có thể sử dụng như: Thuốc chống trầm cảm, thuốc ổn định thần kinh, Hormon gonadotropin, Antiandrogens, Phenothiazin,…
Can thiệp phẫu thuật có thể được xem xét (chỉ định hạn chế) nhưng một số chuyên gia tỏ ra lo ngại về tính an toàn của phương pháp này.
Điều trị nội trú được chỉ định cho bệnh nhân đã tự tử, giết người, hoặc tàn tật đến mức họ không thể chăm sóc bản thân.
Để có kết quả tối ưu, bệnh nhân cần phải được quản lý điều trị suốt đời. Nếu bệnh nhân bắt đầu điều trị bằng thuốc trong bệnh viện, điều trị tương tự nên được tiếp tục sau đó và điều chỉnh khi cần thiết.
BS. Hồ Hải