Lạc nội mạc tử cung là gì?
Bình thường, buồng tử cung được bao phủ một lớp niêm mạc ngăn cách với lớp cơ tử cung nên còn được gọi là nội mạc tử cung. Lớp niêm mạc này chịu tác dụng hoạt động của estrogen trong chu kì kinh nguyệt của người phụ nữ. Hàng tháng, dưới tác dụng của estrogen ở buồng trứng, lớp niêm mạc này phát triển để cuối chu kì kinh nguyệt do sụt giảm estrogen, lớp niêm mạc này bong ra tạo thành kinh nguyệt. Như vậy lớp niêm mạc này chỉ có trong buồng tử cung. Khi những niêm mạc này ở ngoài buồng tử cung thì được gọi là lạc nội mạc tử cung (LNMTC).
Hiện nay vẫn chưa xác định được chính xác nguyên nhân gây ra tình trạng này nhưng có một số tác nhân được đề cập đến.
Thứ nhất là do sự trào ngược kinh nguyệt. Bình thường, khi hành kinh, tử cung có những cơn co bóp nhẹ từ thân xuống cổ tử cung (CTC) để đẩy huyết kinh và những niêm mạc tử cung bong ra ngoài, nhưng ở một người nào đó lại có những cơn ngược khi hành kinh nên đẩy huyết kinh ngược lên và huyết kinh này tràn vào vòi trứng và ổ bụng. Trong huyết kinh này có những tế bào nội mạc tử cung còn “tươi” nghĩa là vừa bong ra “chu du” khắp ổ bụng đến chỗ nào thì dừng lại và phát triển rồi cũng chịu sự tác dụng của estrogen hàng tháng nên to lên nhưng khác với khi những tế bào này trong tử cung là được bong ra và tống xuất ra ngoài nhưng trong ổ bụng chúng làm thành những kén (những ổ LNMTC) không bong ra mà ngày càng to lên. Khi càng có nhiều niêm mạc vào ổ bụng thì càng tạo nên nhiều ổ LNMTC.
Thứ hai là giả thuyết cho rằng trong cơ thể có những tế bào dự trữ bỗng nhiên có một ngày phát triển và biến thành những ổ LNMTC, hoặc do dị sản của những tế bào nguyên thủy của vòi tử cung khi thai ra đời.
Thứ ba là do khi mổ lấy thai (thường gặp) hoặc can thiệp vào lòng tử cung (can thiệp phụ khoa) làm cho niêm mạc tử cung rơi vào ổ bụng mà gây nên LNMTC.
Khi bị LNMTC, người bệnh thường thấy xuất hiện những cơn đau vùng chậu trong thời kỳ hành kinh và ngày càng nặng hơn, đau trong hoặc sau khi quan hệ tình dục, đau dữ dội trong thời gian hành kinh, có máu trong phân hoặc nước tiểu, chảy máu âm đạo sau khi quan hệ tình dục… LNMTC gây nên tình trạng viêm nhiễm làm dính vùng tiểu khung, hai vòi tử cung bị xoắn vặn hoặc bị viêm gây xơ cứng khiến sự di động bị hạn chế hoặc mất đi, không đón được noãn khi phóng ra từ buồng trứng (hay gọi là trứng rụng).
Khi LNMTC tại buồng trứng sẽ phá hủy tổ chức của buồng trứng đương nhiên phá hủy luôn các nang noãn hoặc do viêm nhiễm và dính với buồng trứng dầy lên ngăn cản sự phóng noãn. Khi LNMTC nằm trong thành vòi tử cung sẽ làm cho vòi tử cung kém mềm mại ảnh hưởng đến sự di chuyển của tinh trùng hoặc noãn, thậm chí nếu to sẽ ngăn cản hoặc là bít làm tắc lòng vòi tử cung mà gây vô sinh. Khi LNMTC trong thành có tử cung sẽ làm biến đổi môi trường buồng tử cung làm cho phôi (nếu noãn đã được thụ tinh) sẽ chết. Tình trạng viêm dính nhiều trong ổ bụng làm hạn chế hoặc ngăn cản di động của vòi tử cung. Tuy nhiên, LNMTC vẫn có thể có thai được nhưng kết quả không cao vì sự phát triển của khối lạc nội mạc tử cung thường theo tỉ lệ thuận với thời gian mà khả năng có thai lại tỉ lệ nghịch với thời gian. Nếu khối LNMTC bé và ít (mức độ nhẹ) thì tỉ lệ có thai cao, còn khối to, nhiều, dính ổ bụng thì khả năng có thai khó khăn hơn.
GS. Vương Tiến Hòa
Vùng vỏ ở bên ngoài, chứa các nang noãn, thể vàng, thể trắng, và các tế bào đệm. Vùng tủy ở bên trong, chứa mô liên kết. Hệ thống mạch máu, bạch huyết, và các dây thần kinh đi vào mô tủy của buồng trứng tại vùng rốn.
Trong giai đoạn bào thai, vào tuần lễ từ 18 – 22, buồng trứng ở các bé gái đã tạo ra khoảng 7 triệu tế bào trứng sơ cấp. Tuy nhiên, khi sinh ra, vùng vỏ buồng trứng của các bé gái chỉ còn lại từ 1 – 2 triệu tế bào trứng sơ cấp, tất cả đều đang ở giai đoạn tiền kỳ của giảm phân I. Mỗi tế bào trứng sơ cấp được bao quanh bởi một lớp tế bào biểu mô vảy, tạo thành các nang nguyên thủy. Đến tuổi dậy thì, buồng trứng còn chưa đầy 300.000 tế bào trứng sơ cấp, và bắt đầu hoạt động theo chu kỳ hằng tháng. Trong mỗi chu kỳ, chỉ có một nang trứng trưởng thành và rụng đi, do đó toàn bộ thời gian hoạt động sinh sản ở người nữ chỉ sử dụng tối đa khoảng 400 nang trứng. Khi mãn kinh, buồng trứng chỉ còn sót lại xấp xỉ 1.000 tế bào trứng sơ cấp.
Các nang trứng ở người nữ có 2 số phận khác nhau: đa số các nang sẽ bị thoái hóa trong quá trình chiêu mộ; một số ít các nang sẽ trưởng thành, trải qua sự rụng trứng, và đi vào chu kỳ kinh nguyệt mỗi tháng.
Hiện tượng thoái hóa là quá trình xảy ra thường xuyên tại buồng trứng, trong đó các nang chưa trưởng thành sẽ bị tiêu biến dưới tác động kiểm soát của các chất cận tiết và nội tiết. Sự chết theo chương trình của các tế bào hạt được xem là cơ chế cơ bản trong hiện tượng thoái hóa nang, liên quan đến hoạt động của 5 hệ thống tín hiệu khác nhau, gồm: TNF (tumor necrosis factor alpha), Fas ligand, TRAIL (TNF-related apoptosis-inducing ligand), APO-3 ligand, PFG-5 ligand. Ngược lại, hoóc-môn FSH từ tuyến yên có vai trò ức chế hiện tượng này. Như vậy, sự chết theo chương trình trong quá trình chiêu mộ nang trứng định kỳ ở độ tuổi sinh sản đã giúp lý giải vì sao mỗi buồng trứng sở hữu đến 300.000 nang nguyên thủy vào thời điểm sau dậy thì, nhưng khi mãn kinh thì dự trữ buồng trứng chỉ còn lại xấp xỉ khoảng 1.000 nang.
Sau tuổi dậy thì, các nang trứng nguyên thủy bắt đầu trải qua hàng loạt các thay đổi quan trọng, cả về cấu tạo mô học lẫn chức năng bài tiết hoóc-môn. Quá trình trưởng thành của một nang trứng kéo dài khoảng hơn 120 ngày. Đây là thời gian phát triển từ một nang nguyên thủy lần lượt trải qua các giai đoạn: nang sơ cấp, nang thứ cấp, nang có hốc, và cuối cùng trở thành một nang tiền rụng trứng. Hiện tượng này diễn ra gối đầu liên tục, nghĩa là bất kỳ lúc nào trong buồng trứng cũng tồn tại những nang đang ở các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển. Khởi đầu chu trình trưởng thành của nang trứng là sự chiêu mộ một nhóm nang nguyên thủy. Khoảng 10 ngày trước khi kết thúc chu trình trưởng thành, hầu hết các nang được chiêu mộ ban đầu đều đã đi vào tiến trình thoái hóa. Số ít các nang còn lại đang ở giai đoạn nang thứ cấp sẽ đi vào chu kỳ kinh nguyệt, và cạnh tranh với nhau cho đến khi chỉ còn một nang tồn tại. Nang này phát triển thành nang tiền rụng trứng hay nang vượt trội, rồi vỡ ra và phóng thích tế bào trứng thứ cấp vào vòi trứng, phần còn lại của nang sau đó biệt hóa thành hoàng thể.
Không giống như sự sinh tinh kéo dài vô thời hạn ở nam giới, quá trình trưởng thành của các nang trứng ở nữ giới kết thúc khi dự trữ buồng trứng cạn kiệt, số lượng nang còn lại không đủ để đáp ứng với các tín hiệu nội tiết từ tuyến yên trước, báo hiệu sự bắt đầu của thời kỳ mãn kinh.
ThS.BS. LÊ QUỐC TUẤN
Xin hỏi bác sĩ có phải em bị u xơ tử cung? (vì chưa có chồng nên em rất ngại đi khám).
Bùi Phương Hạnh ([email protected])
U xơ tử cung là bệnh lành tính gặp ở mọi lứa tuổi, nó cũng có thể là nguyên nhân của đau bụng kinh. Tuy nhiên, đau bụng khi thấy kinh là biểu hiện thường gặp ở mọi chị em, nhất là các em gái mới lớn, cảm giác đau hơn nhưng có em đau nhiều có em đau ít phụ thuộc vào ngưỡng đau của mỗi người. Hơn nữa phụ thuộc tư thế tử cung. Những người tư thế tử cung trung gian sẽ đau ít hơn người tử cung tư thế ngả sau hoặc ngả trước. Do cấu tạo giải phẫu vùng tiểu khung bao gồm: phía trước là bàng quang, sau là trực tràng, do đó khi có kinh nguyệt, tử cung thường to hơn bình thường, nên chèn ép vào trực tràng gây đại tiện nhiều lần và chèn vào bàng quang gây tiểu nhiều. Ở những người bị u xơ tử cung cũng tùy vị trí u ở lớp niêm mạc hay cơ tử cung, ở đáy hay eo mà có biểu hiện chèn ép nhiều hay ít, nhiều trường hợp không có triệu chứng. Trường hợp của bạn nếu đau nhẹ không ảnh hưởng tới sinh hoạt thì cứ yên tâm không cần lo lắng. Nhưng nếu đau nhiều kèm kinh nguyệt kéo dài trên 7 ngày, lượng kinh ra nhiều, máu cục… thì bạn nên đi khám sớm. Mặc dù u xơ tử cung là bệnh lành tính nhưng có thể gặp một số biến chứng: u xơ to có thể chèn ép lên niệu quản gây thận ứ nước; kinh nguyệt nhiều kéo dài gây thiếu máu. Ngoài ra, có thể là nguyên nhân gây chậm có thai hoặc vô sinh; dễ sẩy thai, tăng nguy cơ viêm nội mạc tử cung… Để biết chắc chắn có u xơ, bạn chỉ cần đi khám siêu âm ổ bụng, từ đó bác sĩ sẽ tư vấn cách điều trị phù hợp.
BS. Kim Oanh
Máu kinh cũng rất xấu, có nhiều máu cục. Chị bạn em bị lạc nội mạc tử cung có biểu hiện giống, vậy em có phải cũng bị bệnh giống chị ấy? Em mới cưới nên rất lo… Bị lạc nội mạc tử cung có phải sẽ không thể có con? Bệnh có điều trị được không?
Nguyễn Thanh Huyền (Ý Yên, Nam Định)
Bệnh lạc nội mạc tử cung là một bệnh lý phụ khoa khá đặc biệt, xảy ra khi các tế bào niêm mạc tử cung đi lạc chỗ ra ngoài tử cung như ở buồng trứng, vòi trứng, phúc mạc, trực tràng, bàng quang, thận, thậm chí ở phổi…
Lạc nội mạc tử cung gây ra các cơn đau. Các cơn đau vùng chậu trong thời gian hành kinh và ngày càng nặng lên. Có thể đau trước, trong và sau khi hành kinh. Đau khi đại, tiểu tiện trong kỳ kinh nguyệt. Đau trong hoặc sau khi quan hệ tình dục. Đau thắt lưng và đau bụng. Nói chung đau bụng kinh là một dấu hiệu cơ năng gợi ý nhất về lạc nội mạc tử cung. Kinh nguyệt thất thường, lượng máu kinh nhiều, kỳ kinh kéo dài. Mệt mỏi, tiêu chảy, táo bón, đầy hơi hoặc buồn nôn trong kỳ kinh nguyệt.
Nếu bạn có những triệu chứng nói trên, có thể gợi ý là bạn bị lạc nội mạc tử cung. Nhưng một số triệu chứng trên cũng có thể là triệu chứng bệnh khác như buồng trứng đa nang chẳng hạn. Vì thế, các dấu hiệu lâm sàng chỉ là gợi ý, nếu muốn biết bạn có bị lạc nội mạc tử cung hay không, cần phải nội soi. Tốt nhất bạn nên đi khám phụ khoa để được chỉ định làm các chẩn đoán cận lâm sàng khác.
BS. Nguyễn Lý
Những bất thường bẩm sinh ở tử cung gây vô sinh
Bất thường bẩm sinh (hay dị tật bẩm sinh) về tử cung có nhiều loại. Dưới đây nêu một số trường hợp thường gặp nhất dẫn đến vô sinh:
Không có tử cung: Có những phụ nữ bẩm sinh đã không có tử cung mặc dầu các bộ phận khác như bộ phận sinh dục ngoài, buồng trứng vẫn có như người bình thường nhưng tử cung lại không có, thay vào đó là một màng mỏng, hai bên màng này vẫn có 2 vòi và buồng trứng như người bình thường.
Tử cung bất thường (hay dị dạng): Hay gặp hơn cả là loại tử cung đôi với các dạng sau đây:
+ Có 2 tử cung, mỗi tử cung có một cổ tử cung riêng biệt kèm theo 2 âm đạo. Dị tật này gây vô sinh vì khối lượng của mỗi tử cung quá nhỏ. Tuy vậy cũng có người có thể mang thai, thậm chí khi thì mang thai ở tử cung bên này khi lại ở tử cung bên cạnh.
+ Có 2 tử cung, 2 cổ tử cung nhưng lại chỉ một âm đạo.
+ Có trường hợp 2 tử cung nhưng lại chung nhau một cổ tử cung.
+ Có trường hợp tử cung một sừng, trên thực tế cũng là loại dị tật 2 tử cung nhưng một bị teo đi, chỉ còn lại một tử cung với một vòi.
– Còn một loại tử cung kém phát triển, luôn ở dạng tử cung của trẻ em với hình dáng nhỏ bé, các tỷ lệ, kích thước ngược với tử cung một phụ nữ trưởng thành.
Ảnh minh họa
Đó là những trường hợp người phụ nữ sinh ra đã có tử cung và tử cung đó phát triển bình thường nhưng do bệnh mắc phải gây tổn thương khiến tử cung không mang thai được nữa. Có thể gặp các trường hợp sau:
Tắc vòi tử cung: Tử cung có 2 vòi, là 2 ống dẫn từ thân tử cung sang 2 bên, tiếp giáp với buồng trứng, thu nhận trứng chín rụng xuống để thụ tinh với tinh trùng người đàn ông (khi giao hợp) trở thành phôi và chuyển dần vào trong lòng tử cung để làm tổ và phát triển thành thai. Trường hợp thường gặp là do viêm nhiễm khiến vòi tử cung bị dính, tắc lại nên tinh trùng không thể đi lên và trứng sau khi rụng cũng không thể di chuyển về phía buồng tử cung nên không có thụ thai. Ngoài ra, vòi tử cung có thể bẩm sinh bị chít hẹp hoặc bị khối u chèn ép, ngăn cản sự di chuyển của tinh trùng và trứng.
Tử cung bị dính: Bình thường bên trong tử cung là một khoang rỗng, có lớp niêm mạc bao phủ. Chính lớp niêm mạc này do biến đổi nội tiết theo chu kỳ, hàng tháng bong ra gây chảy máu tạo nên kinh nguyệt. Trường hợp buồng tử cung bị viêm nhiễm, lớp niêm mạc bị tổn thương làm cho buồng tử cung dính các mặt lại với nhau hoàn toàn (sẽ gây vô kinh) hoặc một phần (gây kinh ít và đau bụng kinh). Những tổn thương này ở niêm mạc tử cung khiến trứng thụ tinh không làm tổ được tại đó gây vô sinh.
Tử cung có khối u: Thường gặp là các u xơ tử cung. Các khối u này khi to lên sẽ làm buồng tử cung biến dạng, không thuận lợi cho phôi thai làm tổ. Có khi tuy khối u không lớn nhưng lại ở vị trí sát với lỗ thông lên vòi tử cung gây tắc.
Trên đây là những nguyên nhân chính khiến người phụ nữ vô sinh. Để xác định vô sinh do nguyên nhân nào, người phụ nữ phải được thầy thuốc chuyên khoa thăm khám và làm các xét nghiệm cần thiết mới chẩn đoán được chính xác và mới có phương pháp điều trị thích hợp.
BS. Đức Nhuận
Bệnh cơ tuyến tử cung là tình trạng mô tuyến của nội mạc tử cung hiện diện bên trong cơ của thành tử cung. Bình thường, biểu mô tuyến chỉ có ở lớp nội mạc tử cung, có chu kỳ phát triển và thoái triển theo chu kỳ hormon sinh dục nữ, tạo ra hiện tượng kinh nguyệt. Trong một số trường hợp, khi mô tuyến này lạc vào trong cơ tử cung sẽ tạo ra tình trạng bệnh lý bất thường với triệu chứng phổ biến nhất là đau bụng dưới theo chu kỳ kinh nguyệt.
Biểu hiện của bệnh cơ tuyến tử cung có thể khác nhau ở mỗi người, từ mức độ nhẹ tới nặng. Có khoảng 1/3 trường hợp là không có triệu chứng nào và chỉ được phát hiện khi đi khám bệnh phụ khoa khác. Nhưng ở những trường hợp còn lại, bệnh cơ tuyến tử cung có thể ảnh hưởng tới chất lượng sống của người bệnh. Người phụ nữ mắc bệnh cơ tuyến tử cung có thể bị đau nhiều tới rất đau trong thời gian có kinh nguyệt (thống kinh), lượng máu kinh ra nhiều (cường kinh) có lẫn máu cục, kéo dài (rong kinh). Ngoài ra, có thể có cảm giác tăng áp lực lên bàng quang và trực tràng, đau trong khi đi cầu. Dấu hiệu đau vùng chậu mạn, đau khi giao hợp cũng là những biểu hiện thường gặp. Tử cung to lên nhưng người bệnh có thể chỉ thấy bụng to hơn trước. Các triệu chứng này thường xảy ra khi bệnh nhân quanh độ tuổi 40-50. Tuy nhiên, những triệu chứng trên thường không chuyên biệt, có thể nhầm lẫn với các bệnh lý khác như chảy máu tử cung do rối loạn chức năng, do u xơ tử cung hay lạc nội mạc tử cung… Tần suất và độ nặng của các triệu chứng phụ thuộc vào mức độ lan tỏa và độ sâu của bệnh cơ tuyến tử cung. Triệu chứng thường biến mất hoặc cải thiện sau khi mãn kinh.
Phân biệt bệnh cơ tuyến tử cung (trái) và lạc nội mạc tử cung (phải).
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Chưa chắc chắn nguyên nhân gây ra bệnh cơ tuyến tử cung nhưng có một số giả thuyết: Do sự phát triển bào thai, bệnh cơ tuyến tử cung có thể hình thành từ khi còn là thai nhi; Có thể do nguyên nhân viêm nội mạc tử cung liên quan tới sinh đẻ; Là kết quả của tình trạng xâm lấn trực tiếp của các tế bào nội mạc tử cung từ bề mặt của tử cung đi vào lớp cơ tạo nên thành tử cung. Những vết cắt vào tử cung được tạo ra trong phẫu thuật, chẳng hạn như trong mổ lấy thai, có thể tạo cơ hội cho các tế bào nội mạc tử cung xâm lấn vào thành của tử cung; Các yếu tố rủi ro gồm: mang thai nhiều lần, tuổi tác, có tiền sử phẫu thuật tử cung, nạo thai, can thiệp buồng tử cung…
Một người phụ nữ không có ý định mang thai hoặc không gặp bất kỳ triệu chứng nào có thể không cần điều trị. Tuy nhiên, bất kỳ phụ nữ nào nghi ngờ bệnh cơ tuyến tử cung nên gặp bác sĩ để đánh giá. Mặc dù là bệnh lý lành tính, nhưng những cơn đau và những đợt chảy máu nặng nề do lạc nội mạc trong cơ tử cung gây ra có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.Những cơn đau lặp đi lặp lại có thể dẫn đến trạng thái trầm cảm, kích thích, lo lắng, tức giận,… Chảy máu nặng, kéo dài khi hành kinh có thể dẫn đến thiếu máu mạn tính.Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ vô sinh cao ở những người bị bệnh cơ tuyến tử cung. Đó là lý do tại sao bệnh cơ tuyến tử cung cần được chẩn đoán và điều trị sớm.
Có nhiều lựa chọn điều trị khác nhau dành cho phụ nữ có mắc bệnh cơ tuyến tử cung.
Dùng thuốc: các thuốc chống viêm, thuốc nội tiết có thể làm giảm các triệu chứng.
Nút mạch tử cung: Giúp dừng việc cung cấp máu đến khu vực bị ảnh hưởng và giảm các triệu chứng. Các triệu chứng có thể tái phát sau 2 năm, điều trị bằng nút mạch có thể được lặp lại hoặc phẫu thuật cắt tử cung.
Phẫu thuật cắt tử cung: Có thể điều trị tận gốc bằng cách cắt tử cung hoặc điều trị bảo tồn (nội soi buồng và nạo niêm mạc tử cung). Lựa chọn phương pháp phẫu thuật tùy thuộc vào độ tuổi và mong muốn có thai trong tương lai của bệnh nhân. Cũng có thể cắt tử cung bán phần hay toàn phần tùy thuộc tình trạng của bệnh nhân, mức độ hiện diện của tổn thương, độ sâu của xâm lấn. Sau phẫu thuật, điều trị tiếp tục bằng GnRH agonist cho thấy có hiệu quả làm giảm tái phát triệu chứng thống kinh và cường kinh.
Không cần thiết phải điều trị nếu không có triệu chứng, không có ý định mang thai hoặc đang gần mãn kinh.
Bệnh cơ tuyến tử cung (adenomyosis) và lạc nội mạc tử cung (endometriosis) rất giống nhau nhưng có sự khác biệt: Trong bệnh cơ tuyến tử cung, các tế bào nội mạc tử cung phát triển trong cơ tử cung; Trong lạc nội mạc tử cung, những tế bào này phát triển bên ngoài tử cung, đôi khi ở buồng trứng và ống dẫn trứng. Lạc nội mạc tử cung xảy ra ở phụ nữ độ tuổi 30 và 40, trong khi nhiều phụ nữ từ 40-50 tuổi có xu hướng phát triển bệnh cơ tuyến tử cung. Có thể một người phụ nữ bị cả lạc nội mạc tử cung và bệnh cơ tuyến tử cung.
BS. Nguyễn Thị Lý
Có thể nói lạc nội mạc tử cung là tình trạng bệnh lý được xác định khi có sự hiện diện của nội mạc tử cung gồm tuyến và mô đệm nằm ở một vị trí khác ngoài lòng tử cung. Chúng biểu hiện dưới 4 dạng chính gồm: bệnh tuyến cơ tử cung, nang lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng, lạc nội mạc tử cung ở phúc mạc và lạc nội mạc tử cung sâu ở vách âm đạo – trực tràng, ở tạng đường tiêu hóa.
Việc chẩn đoán xác định bệnh lạc nội mạc tử cung cần căn cứ vào các triệu chứng cơ năng, triệu chứng lâm sàng và kết quả xét nghiệm cận lâm sàng.
Về triệu chứng cơ năng: người bệnh thường đi khám vì bị đau bụng hoặc vô sinh, tuy nhiên cũng có nhiều trưởng hợp không có triệu chứng cơ năng ngay cả khi có nang lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng khá to. Triệu chứng đau xảy ra bao gồm đau bụng khi hành kinh, đau khi giao hợp và đau bụng vùng chậu mạn tính. Triệu chứng ít gặp hơn như đi đại tiện và tiểu tiện khó, đi tiểu ra máu, chảy máu trực trạng và đau vai; bị rối loạn kinh nguyệt bao gồm cả rong kinh và rong huyết. Một vấn đề cũng cần được quan tâm là khó có thai bao gồm cả tình trạng suy giảm khả năng có thai hay vô sinh dẫn đến việc thai sản có chiều hướng bất lợi.
Người bệnh thường đi khám vì bị đau bụng hoặc vô sinh
Về triệu chứng lâm sàng: thực tế nên khám bệnh nhân trong lúc có kinh sẽ giúp nhận định sự tổn thương dễ dàng hơn. Tùy vị trí bị tổn thương, khi khám bệnh có thể ghi nhận tại âm hộ, tầng sinh môn ở vết cắt tầng sinh môn là vị trí thường gặp của nốt lạc nội mạc tử cung; cổ tử cung có nốt màu xanh tím gây đau, to ra khi có kinh; tử cung có kích thước bình thường hoặc lớn hơn bình thường trong trường hợp lạc tuyến vào cơ tử cung. Khám có thể thấy nốt ở vách âm đạo – trực tràng hay thấy được các nốt ở thành âm đạo hoặc khối u ở phần phụ.
Về xét nghiệm cận lâm sàng: siêu âm đường âm đạo để phát hiện dấu hiệu bất thường. Chụp cộng hưởng từ MRI (magnetic resonance imaging) là kỹ thuật được chọn lựa để đánh giá những tổn thương lạc nội mạc tử cung sâu sau phúc mạc và được sử dụng khi nghi ngờ chẩn đoán hoặc nghi ngờ lạc nội mạc tử cung sâu. Nội soi ổ bụng cũng được xem là kỹ thuật giúp chẩn đoán xác định bệnh lý lạc nội mạc tử cung, nội soi còn giúp phân độ lạc nội mạc tử cung; những hình ảnh tổn thương lạc nội mạc tử cung qua nội soi rất đa dạng; dạng điển hình thường gặp là những nốt hoặc nang màu đen, nâu đen, xanh đậm, trong chứa dịch giống sôcôla; dạng không điển hình thấy tổn thương đỏ rực như phỏng, hoặc những bóng nước, những vết rách phúc mạc; chính sự đa dạng này nên khi phẫu thuật nội soi cần phải sinh thiết tổn thương để có chẩn đoán xác định bằng kết quả giải phẫu bệnh. Xét nghiệm mô bệnh học được xem là tiêu chuẩn quan trọng để chẩn đoán xác định lạc nội mạc tử cung, tuy nhiên nếu kết quả mô bệnh học âm tính vẫn không loại trừ hoàn toàn chẩn đoán.
Triệu chứng đau xảy ra bao gồm đau bụng khi hành kinh, đau khi giao hợp và đau bụng vùng chậu mạn tính
Thực tế chẩn đoán xác định bệnh lý lạc nội mạc tử cung phải căn cứ trên nhiều yếu tố bao gồm tiền sử, bệnh sử, thăm khám lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và qua phẫu thuật, giải phẫu bệnh. Lưu ý cũng cần loại trừ các bệnh lý ác tính.
Việc xử trí điều trị bệnh lạc nội mạc tử cung thường căn cứ vào triệu chứng bệnh lý được biểu hiện. Có hai nhóm triệu chứng chính của bệnh lạc nội mạc tử cung gồm đau và vô sinh, điều trị đau và điều trị vô sinh có thể là hai hướng điều trị khác nhau; nếu trường hợp bệnh nhân vừa có đau và vừa vô sinh thì phải xem việc điều trị vô sinh là vấn đề ưu tiên. Điều trị bệnh lý lạc nội mạc tử cung cũng bao gồm cả hai phương pháp nội khoa và ngoại khoa, điều trị nội khoa có thể được sử dụng trước hoặc sau phẫu thuật; phương pháp điều trị lạc nội mạc tử cung sâu ngày càng ít can thiệp và chỉ định phẫu thuật phải được đánh giá chính xác để tránh nguy cơ tái phát, gây nên biến chứng và phải phẫu thuật lại.
Điều trị đau kèm lạc nội mạc tử cung: việc điều trị nội khoa được xem là phương pháp chọn lựa ưu tiên và lựa chọn thuốc điều trị dựa vào tính chất ưu điểm, tác dụng phụ, hiệu quả tác dụng, chi phí giá thành và tính sẵn có của từng biện pháp chữa trị. Hiện nay thuốc viên tránh thai phối hợp hoặc Progestin đơn thuần được sử dụng làm thuốc điều trị đầu tay. Nếu sau 3 tháng điều trị bước đầu bị thất bại, nghĩa là vẫn còn đau thì nên chuyển qua điều trị bước hai với thuốc Danazol hoặc Gestinone hay dụng cụ tránh thai có Levonorgestrel hoặc GnGH (gonadotropin releasing hormone) đồng vận kết hợp với liệu pháp bổ trợ từ lúc bắt đầu điều trị. Các loại thuốc thường được sử dụng bao gồm: thuốc viên tránh thai phối hợp dùng liều thấp 20 – 30 µg ethinyl estradiol và một loại progeen bất kỳ. Thuốc Progestagen như Medroxyprogesterone Acetate (MPA) dạng viên, Depot medroxy-progesterone acetate (DMPA), Norethisterone acetate, Cyproterone acetate, Dienogest và Danazol. Thuốc kháng progestogen như Gestrinone. Dụng cụ tử cung phóng thích chậm Levonorgestrel. Thuốc GnRH đồng vận như Nafarelin, Leuprolide, Buserelin, Goserelin và Triptorelin. Các loại thuốc khác như chất ức chế men thơm hóa, kháng viêm không steroid và những thuốc giảm đau.
Việc điều trị ngoại khoa với mục tiêu là loại bỏ đi những tổn thương lạc nội mạc tử cung gây đau và dính, trên thực tế nguy cơ bị tái phát sau 10 năm chiếm 40% và phải mổ lại sau 2 năm khoảng 20%. Điều trị ngoại khoa với nang lạc nội mạc tử cung có thể có hiệu quả giảm đau nhưng cần cân nhắc đến khả năng ảnh hưởng lâu dài và bất lợi cho các điều trị vô sinh sau này vì chức năng buồng trứng suy giảm đi, chỉ định bóc nang lạc nội mạc tử cung qua nội soi khi nang có kích thước trên 3cm. Lưu ý không nên thực hiện điều trị nội tiết trước phẫu thuật vì không có hiệu quả cải thiện triệu chứng đau và điều trị nội tiết hỗ trợ sau phẫu thuật cũng không có hiệu quả cải thiện triệu chứng đau. Tuy nhiên có thể phối hợp điều trị nội khoa sau phẫu thuật để dự phòng sự tái phát của bệnh lý lạc nội mạc tử cung.
Nên khám bệnh nhân trong lúc có kinh sẽ giúp nhận định sự tổn thương dễ dàng hơn
Điều trị vô sinh kèm lạc nội mạc tử cung: hiện nay vai trò của điều trị nội tiết trong bệnh lý vô sinh rất hạn chế. Các phác đồ điều trị nội tiết hầu hết đều ngăn cản khả năng có thai của người phụ nữ. Vì vậy, không nên kê đơn điều trị nội tiết nhằm mục đích ức chế chức năng buồng trứng để cải thiện khả năng có thai. Phụ nữ vô sinh có kèm theo lạc tuyến nội mạc tử cung cần thực hiện việc lấy bỏ thương tổn qua nội soi ổ bụng, bao gồm cả gỡ dính, chúng có thể cải thiện khả năng có thai sau phẫu thuật; lưu ý không sử dụng dòng điện cao tần đơn cực. Việc phẫu thuật bóc khối u lạc nội mạc tử cung phải tư vấn trước cho người bệnh về nguy cơ suy giảm hay mất chức năng buồng trứng sau phẫu thuật. Quyết định thực hiện phẫu thuật phải được cân nhắc kỹ lưỡng nếu bệnh nhân đã từng bị phẫu thuật buồng trứng ít nhất một lần trước đó. Lưu ý không kê đơn điều trị với nội tiết hỗ trợ sau phẫu thuật nhằm mục đích cải thiện khả năng có thai tự nhiên. Nên điều trị hỗ trợ sinh sản sớm sau phẫu thuật để tăng cơ hội có thai. Trường hợp vô sinh có kèm theo lạc nội mạc tử cung độ I – II theo Hiệp hội Y học sinh sản Hoa Kỳ (AFS/ASRM), các bác sĩ lâm sàng nên thực hiện kích thích buồng trứng kèm theo bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI: intrauterine insemination) thay vì theo dõi đơn thuần hay chỉ bơm tinh trùng đơn thuần. Nếu đã can thiệp phẫu thuật, cần thực hiện kích thích buồng trứng kết hợp bơm tinh trùng vào buồng tử cung sớm trong vòng 6 tháng sau phẫu thuật. Khuyến cáo nên thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm cho vô sinh có liên quan đến lạc nội mạc tử cung, đặc biệt khi có giảm dự trữ buồng trứng, chức năng vòi tử cung bị tổn hại hay có sự tham gia của yếu tố nam và các điều trị khác trước đó bị thất bại. Có thể cho GnRH đồng vận trong khoảng 3 – 6 tháng trước khi kích thích buồng trứng (phác đồ cực dài) và thụ tinh trong ống nghiệm để cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng ở bệnh nhân vô sinh có kèm theo lạc nội mạc tử cung.
Đối với bệnh nhân vô sinh có nang lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng lớn hơn 3cm, có thể cân nhắc bóc nang trước khi điều trị bằng kỹ thuật sinh sản hỗ trợ để cải thiện triệu chứng đau hay để tiếp cận được nang noãn khi thực hiện chọc hút; tuy nhiên, phải tư vấn cho bệnh nhân về nguy cơ suy giảm chức năng buồng trứng và dính sau phẫu thuật và nguy cơ có thể suy buồng trứng sau mổ; quyết định thực hiện phẫu thuật bóc nang lạc nội mạc tử cung phải được cân nhắc thật kỹ nếu bệnh nhân đã từng bị phẫu thuật buồng trứng ít nhất một lần trước đó. Đối với các trường hợp lạc nội mạc tử cung sâu, hiện nay chưa có đủ bằng chứng là phẫu thuật lấy bỏ tổn thương lạc nội mạc tử cung sẽ cải thiện khả năng có thai tự nhiên hoặc cải thiện kết quả điều trị bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Lời khuyên của thầy thuốc
Lạc nội mạc tử cung là một bệnh lý sản khoa có thể làm giảm sút chất lượng cuộc sống của người phụ nữ vì hay gây đau vùng hạ vị, đau khi có kinh nguyệt và điều đáng quan tâm nhất là có khả năng gây ra vô sinh. Vì vậy, khi có các dấu hiệu nghi ngờ với những triệu chứng cơ năng phát hiện, cần đi khám bệnh sớm để chẩn đoán xác định nhằm có hướng xử trí điều trị phù hợp; không để bệnh lý kéo dài dẫn đến các biến chứng nguy hại.
BS. NGUYỄN TRÂM ANH
Tử cung là cơ quan sinh sản quan trọng trong cơ thể người phụ nữ. Tử cung đóng vai trò trung tâm của hệ thống sinh sản nữ giới, là nơi cư trú và phát triển của bào thai.
Tử cung là nền tảng duy trì nòi giống và vì vậy luôn cần đảm bảo tốt nhất cho sức khỏe tử cung. Chế độ ăn uống đóng một vai trò không thể thiếu cho sức khỏe tử cung. Dưới đây là 10 loại thực phẩm tốt nhất cho một tử cung khỏe mạnh, có thể thêm vào chế độ ăn uống hàng ngày.
Một chế độ ăn uống giàu chất xơ có thể giúp loại bỏ các chất thải và độc tố ra khỏi cơ thể. Ngoài ra, chất xơ có trong chế độ ăn uống có thể loại bỏ estrogen dư thừa lưu trữ trong cơ thể của bạn, và do đó góp phần ngăn cản sự hình thành nên u xơ tử cung.
Các loại đậu, rau, trái cây và ngũ cốc nguyên hạt là nguồn chất xơ phong phú. Cố gắng ăn thực phẩm hữu cơ để tránh các hóa chất và thuốc trừ sâu, do những hóa chất không mong muốn có thể gây tổn hại cho cơ hội thụ thai. Ngoài ra, khi áp dụng một chế độ ăn uống giàu chất xơ, bạn nên uống khoảng 8-10 ly nước lọc mỗi ngày để hệ tiêu hóa hoạt động thuận lợi.
Rau quả là nguồn cung canxi, kali, magiê và vitamin tuyệt vời. Một chế độ ăn giàu rau quả giúp hạn chế sự phát triển của u xơ tử cung.
Những loại rau quả như các loại đậu, bắp cải, bông cải xanh rất giàu phytoestrogen. Phytoestrogen là chất có khả năng cạnh tranh với estrogen nội sinh của cơ thể. Vì vậy, phytoestrogen có thể làm giảm nồng độ estrogen, giúp ngăn chặn sự phát triển của khối u trong tử cung.
Video Top 10 thực phẩm tăng cường khả năng sinh sản (Nguồn video: Mr. Top 10)
Trái cây, vốn giàu vitamin C và bioflavonoid có thể cản trở sự phát triển của u xơ tử cung và có thể bình thường hóa nồng độ estrogen.
Bioflavonoid cũng ngăn ngừa ung thư buồng trứng và giúp cho hệ thống sinh sản khỏe mạnh. Hãy ăn nhẹ các loại trái cây giữa các bữa ăn chính, khi bạn cảm thấy đói.
Ăn các sản phẩm từ sữa như sữa chua, phô mai, sữa và bơ hàng ngày tốt cho sức khỏe tử cung.
Những sản phẩm từ sữa rất giàu canxi và vitamin D. Trong khi canxi giữ cho xương khỏe mạnh, vitamin D đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa u xơ tử cung. Bạn cũng cần vitamin D để cơ thể có thể hấp thụ canxi.
Trà xanh chứa nhiều chất chống oxy hóa, không chỉ giúp duy trì tử cung khỏe mạnh mà còn có thể điều trị u xơ tử cung.
Theo các chuyên gia thảo dược, phụ nữ bị u xơ tử cung uống trà xanh đều đặn trong vòng 8 tuần có thể giảm xơ tử cung.
Cá nước lạnh, như cá thu và cá hồi rất giàu axit béo omega-3 thiết yếu, có tác dụng làm giảm sự sản sinh ra prostaglandin trong cơ thể phụ nữ.
Prostaglandin là một chất nội tiết có thể gây co thắt của tử cung. Đôi khi, do mức độ nghiêm trọng của các cơn co thắt, làm cho tử cung sai vị trí sinh lý bình thường.
Chúng ta đều biết rằng chanh rất giàu vitamin C và giúp tăng cường hệ thống miễn dịch. Vitamin C cũng hỗ trợ cải thiện khả năng miễn dịch của tử cung, để tránh nhiễm vi khuẩn và ngăn ngừa nhiễm trùng tử cung.
Bạn có thể uống một cốc nước chanh ấm mỗi ngày vào buổi sáng để cải thiện sức khỏe tử cung.
Rau xanh bao gồm cải xoăn, cải bó xôi, rau họ cải giúp duy trì sự cân bằng kiềm trong tử cung. Rau xanh cũng cung cấp các khoáng chất cần thiết cho hoạt động tối ưu của hệ thần kinh.
Ngoài ra, bạn nên ăn đa dạng thêm nhiều loại rau xanh khác ngoài các loại rau kể trên để tăng hấp thu tất cả các dưỡng chất cần thiết, trong đó có axit folic, để đảm bảo cho tử cung sẵn sàng nuôi dưỡng mộ thai nhi khỏe mạnh.
Các loại hạt đóng vai trò giúp cơ thể sản sinh tối ưu các hormon. Nên ăn các loại hạt như hạnh nhân, hạt lanh và hạt điều vì các loại hạt này rất giàu axit béo omega-3 và cholesterol tốt.
Các axit béo omega-3 giúp loại bỏ u xơ tử cung cũng như ngăn ngừa ung thư tử cung. Lượng cholesterol tốt duy trì nồng độ cholesterol trong huyết thanh và ngăn ngừa tình trạng sinh non hoặc sinh trẻ nhẹ cân.
Dầu thầu dầu có thể điều trị u nang buồng trứng và u xơ tử cung. Ngoài ra, sự hiện diện của axit riconoleic trong dầu thầu dầu giúp tăng cường hệ thống miễn dịch, chống nhiễm trùng cho tử cung.
TS.BS. Lê Thanh Hải
(tham khảo Style Craze)
Do vậy, điều trị u xơ tử cung vừa có ý nghĩa giúp việc thụ thai dễ dàng hơn, đồng thời giúp an thai. U xơ tử cung là căn bệnh thường gặp, có tỉ lệ mắc lên tới 30% ở những phụ nữ từ 30 – 50 tuổi. Hầu hết các u xơ tử cung lành tính. Nguyên nhân gây u xơ tử cung chưa rõ nhưng một số nghiên cứu chứng minh sự tăng trưởng của bệnh có liên quan đến các kích thích tố nữ estrogen và progesterone. Y học cổ truyền cho rằng, u xơ tử cung là do khí huyết tắc trệ.
Có nhiều loại u xơ tử cung. Nếu u xơ nằm ở mặt ngoài tử cung, khi phát triển lớn hơn có thể gây đau. U xơ trong cơ tử cung là loại phổ biến nhất và rất dễ phát triển lớn. U xơ dưới niêm mạc tử cung dễ dẫn đến chảy máu nặng và các biến chứng khác; khối u xơ có thể nằm ở đáy, thân, eo hay cổ tử cung.
Trong một số trường hợp, u xơ tử cung có thể chặn ống dẫn trứng gây khó khăn cho quá trình thụ thai hay u xơ phát triển bên trong tử cung làm cho thai nhi khó phát triển bình thường… Một số phụ nữ có u xơ thường chịu những rủi ro trong thai kỳ và khi sinh. U xơ tử cung có thể gây ra đau vùng chậu và ra máu nhiều sau khi sinh, thậm chí cần phải phẫu thuật.
Bài thuốc y học cổ truyền giúp khối u nhỏ lại, đồng thời giúp khí huyết lưu thông, người phụ nữ có kinh nguyệt đều đặn dễ thụ thai.
Bài thuốc kinh nghiệm: hương phụ 20g, ích mẫu 20g, ngải cứu 20g, trinh nữ hoàng cung 4g, nghệ vàng 20g.
Hương phụ có tác dụng điều kinh, chỉ thống (giảm đau). Ích mẫu: tiêu thủy, hành huyết, trục huyết cũ, sinh huyết mới, điều kinh, giảm độc. Hương phụ và ích mẫu giúp phụ nữ điều hòa kinh nguyệt, lưu thông khí huyết. Ngải cứu lý khí huyết, đuổi hàn thấp, ấm kinh, ngừng máu, an thai, điều hòa kinh nguyệt, điều trị u nhọt. Nghệ chống viêm, phá ác huyết, u nhọt; giúp sinh cơ (lên da) và chỉ huyết (cầm máu). Trinh nữ hoàng cung được nghiên cứu cho thấy là vị thuốc giúp giảm viêm, tiêu u trong u xơ tử cung, u xơ tiền liệt tuyến…
Theo kinh nghiệm, bài thuốc này nên dùng từ 1 – 3 tháng, sau liệu trình nên kiểm tra lại bằng siêu âm. Thông thường, phụ nữ khó có con do u xơ tử cung sẽ có con sau khi dùng bài thuốc này.
Trên một cá nhân cụ thể, việc hiếm muộn nhiều khi không chỉ do một nguyên nhân. Người bị u xơ tử cung có khi phải dùng thêm bài thuốc chữa chứng hiếm muộn. Có nhiều bài thuốc để sử dụng trong trường hợp này và cho kết quả cao.
Như trên đã nói, theo y học cổ truyền, u xơ tử cung là do khí huyết tắc trở, kinh nguyệt rối loạn.
Người xưa có câu, khí huyết xung hòa, trăm bệnh không sinh ra. Khí làm hướng đạo cho huyết, huyết làm chỗ dựa cho khí. Khí thuộc dương chủ động mà vận hành, huyết thuộc âm chủ tĩnh mà phụ vào. Tác dụng của khí vô hình là lưu thông, thể chất của huyết hữu hình là nương tựa và giữ gìn. Cho nên khí hành thì huyết theo. Phụ nữ khí huyết suy thường khó sinh con. Các bài thuốc dùng cho trường hợp này chỉ huyết hay chỉ bổ khí thôi thì chưa đủ mà phải bổ cả khí lẫn huyết.
Qua thực tế khám chữa bệnh vô sinh – hiếm muộn, tôi dùng bài Bát trân, gồm: đương quy 4g, xuyên khung 4g, thục địa 4g, bạch thược 4g, nhân sâm (đảng sâm) 4g, phục linh 4g, bạch truật 4g, cam thảo 2g.
Cách dùng: sắc với 2 lát gừng, 2 quả táo uống trước bữa ăn.
Bài Bát trân được hợp lại từ hai bài thuốc là bài Tứ quân (tác dụng bổ khí) và Tứ vật (bổ huyết).
Hải Thượng Lãn Ông cho rằng khí là vệ thuộc dương, huyết là dinh thuộc âm đó là lưỡng nghi ở người, nếu dùng Tứ vật thì cố âm cho nên kết hợp cả Tứ quân để bổ cả khí lẫn huyết không lo âm dương thiên thắng cho nên gọi là Bát trân. Khí huyết sung mãn sẽ sống lâu.
Cấu trúc bài thuốc Tứ vật (bổ huyết) gồm: đương quy 12g, thục địa 12g, bạch thược 12g, xuyên khung 6g.
Tứ vật là bài thuốc vừa bổ huyết, vừa hoạt huyết (người xưa còn nói bài thuốc này là bài thuốc chuyên để điều huyết “Điều huyết chi chuyên tễ”). Trong bài thuốc có đương quy là bổ huyết, hòa huyết, địa hoàng là bổ huyết tư âm là Quân; bạch thược là dưỡng huyết liễm âm để tăng tính dược của Quân, làm cho chức năng tàng huyết của Can tốt, làm Thần. Xuyên khung có tác dụng hành huyết trong khí làm huyết lưu thông, chống huyết ứ trệ cho nên là Tá và Sứ.
Như vậy bài thuốc này có tác dụng dưỡng huyết, hoạt huyết kiêm cả hành khí, cho nên không những điều trị huyết hư mà dùng cho cả huyết ứ trệ.
Bài thuốc Tứ quân (bổ khí) gồm các vị: nhân sâm 12g, phục linh12g, bạch truật 12g, cam thảo (chích) 8g.
Bài thuốc chủ yếu để bổ khí hoặc kiện tỳ, ích khí. Trong đó, nhân sâm bổ khí, bổ chân khí (nguyên khí), bổ 5 tạng có tính cam ôn nên còn kiện tỳ dưỡng vị là Quân; bạch truật khổ ôn để kiện tỳ vận thấp (hóa thấp) phối hợp với nhau để bổ khí kiện Tỳ là Thần; Phục linh cam đạm để thẩm thấp kiện Tỳ giúp bạch truật tăng tác dụng hóa thấp là Tá; Cam thảo chích tính cam ôn cũng là bổ khí hòa trung đưa thuốc vào Tỳ làm chức năng điều hòa các vị thuốc giúp Nhân sâm ích khí và hòa trung là Sứ. Cho nên bài thuốc này bổ khí kiện tỳ mà không gây thấp trệ tăng lên, cơ thể khỏe hơn. Bốn vị này có tính hòa hoãn dễ uống đều làm ăn ngon bổ khí nên gọi là Tứ quân tử.
Bài Bát trân thang gồm 2 bài “Tứ vật” và “Tứ quân” hợp lại thành một bài thuốc có tác dụng song bổ khí huyết, trong bài tứ quân bổ khí, bài tứ vật bổ huyết gia thêm sinh khương, đại táo để điều hòa dinh vệ. Bát trân từ lâu vẫn nổi tiếng là một bài thuốc có công dụng bồi bổ khí huyết, có tác dụng rất tốt trong việc phòng chống thiếu máu và điều trị các bệnh sản phụ khoa, dùng tốt cho trường hợp rối loạn kinh nguyệt. Trong các trường hợp vô sinh nữ, nhiều người do khí huyết đều hư, sức khỏe suy yếu kinh nguyệt rối loạn… dẫn đến khó có con. Những trường hợp này dùng bài Bát trân rất tốt.
Nhiều trường hợp phụ nữ hiếm muộn dùng bài Bát trân có kết quả tốt. Những người u xơ tử cung sau khi dùng bài thuốc trị u xơ nói trên có thể dùng bài Bát trân để tăng hiệu quả, đạt được nguyện vọng có thai và sinh con.
BS. NGUYỄN PHÚ LÂM