Sau lần bị ngã (cách đây khoảng 2 tháng), tôi thấy cột sống vùng thắt lưng bắt đầu bị đau nhiều hơn. Thời gian gần đây chân phải cũng đau nhức dọc từ hông xuống gót chân; khi ngủ, chỉ cần thay đổi tư thế là đau. Xin hỏi, tôi mắc bệnh gì, chữa trị ở đâu?
Nguyễn Thanh Vinh (Thái Nguyên)
Theo những gì bạn mô tả có thể tạm kết luận: Bạn bị thoát vị đĩa đệm dẫn đến làm hẹp ống sống, đồng thời có kèm thêm tình trạng co rút cơ dựng sống, nên gây ra tình trạng đau khi cử động vùng cột sống. Triệu chứng của bệnh là đau dọc theo chân nhiều hơn đau thắt lưng, khi gắng sức hay trong một số động tác thấy đau rất nhiều ở mông và dọc chân; tê tùy vị trí rễ thần kinh bị chèn ép, như tê mặt ngoài bàn chân và gót chân, mặt ngoài bắp chân hoặc mu bàn chân, mặt trước xương chày, mặt trước đùi. Bạn nên đến bệnh viện có chuyên khoa chấn thương chỉnh hình hoặc thần kinh điều trị. Các bác sĩ có thể sẽ cho làm một số xét nghiệm như chụp CT scanner hay MRI để xác định mức độ hẹp ống sống hay tình trạng chèn ép rễ thần kinh để từ đó có hướng xử trí thích hợp. Khi khám bệnh, thầy thuốc có thể phát hiện hội chứng chèn ép tủy hay rễ thần kinh. Các rễ thần kinh hay bị tổn thương là L3, L4, L5 hay S1 (thường chỉ bị một rễ thần kinh). Thông thường, các bác sĩ sẽ cho bạn dùng thuốc paracetamol, tập vật lý trị liệu dưới nước. Nếu điều trị nội khoa đúng phương pháp và có chế độ nghỉ ngơi hợp lý bạn sẽ khỏi bệnh. Khi những biện pháp này thất bại có thể dùng tới biện pháp giảm đau bằng kỹ thuật tiêm thấm các dẫn xuất của cortisone. Có thể dùng các dẫn xuất của opioide nhưng cần phải cẩn thận. Trong trường hợp nặng hơn khi có những tổn thương thần kinh nặng dẫn đến teo cơ, rối loạn tiêu tiểu có chỉ định phẫu thuật.
BS. Hải Nguyên
Bác sĩ trả lời:
Chào anh,
Trường hợp của anh, bị thoái hóa đốt sống cổ và cột sống lưng, dẫn đến biến chứng là thoát vị đĩa đệm đa tầng cột sống cổ và phồng đĩa đệm cột sống lưng. Hai vị trí này cùng bị thoái hóa là điều rất dễ hiểu bởi chúng thường xảy ra song song.
Thoái hóa đốt sống cổ, đĩa đệm kèm theo tư thế sai trong sinh hoạt hàng ngày sẽ dẫn đến thoát vị đĩa đệm. Thoát vị đĩa đệm là tình trạng đĩa đệm nằm giữa hai đốt sống kề nhau bị lệch ra ngoài, nhân nhầy có thể thoát ra bên ngoài bao xơ đĩa đệm, gây chèn ép lên tủy sống và các rễ thần kinh xung quanh, kéo theo những cơn đau nhức ở cột sống. Khi bị thoát vị đĩa đệm cột sống cổ thì sẽ gây đau ở vùng cổ, tương tự khi xảy ra với cột sống lưng.
Thoát vị đĩa đệm đa tầng là một căn bệnh phức tap hơn nhiều so với thoát vị đĩa đệm. Không chỉ có 1 đĩa đệm bị thoát vị mà có đến từ 2 đĩa đệm trở lên bị thoát vị cùng một lúc trong thoát vị đĩa đệm đa tầng.
Khi bị thoát vị đĩa đệm đa tầng, do nhiều đĩa đệm bị thoát vị cùng một lúc nên sẽ gây chèn ép lên nhiều rễ dây thần kinh khiến cho người bệnh phải gặp nhiều hơn, nặng hơn các cơn đau và dễ gặp phải các biến chứng nguy hiểm, đó là Cơn đau tăng mạnh và gây đau nhức dữ dội, kể cả khi bệnh nhân ho, hắt hơi, đi đại tiện…; Đau lan dọc theo cột sống xuống chân, rễ thần kinh bị chèn ép gây ra hiện tượng tê bì, mất cảm giác,rối loạn cảm giác, rối loạn co thắt, teo cơ, rối loạn phản xạ,… cũng như gây đau đầu, chóng mặt, mất ngủ,…; Nhân nhầy chèn ép vào tủy sống và phần rễ đuôi ngựa gây đau trầm trọng và có nguy cơ bại liệt hai tay (hoặc chân nếu là thoát vị đĩa đệm cột sống lưng), tàn phế vĩnh viễn.
Khi bị thoát vị đĩa đệm đa tầng, không những anh sẽ bị đau nhiều hơn mà có thể biến chứng cũng nhiều hơn, nặng hơn, xảy ra với tốc độ nhanh hơn.
Thoái hóa cũng là nguyên nhân dẫn đến phồng đĩa đệm. Phồng đĩa đệm là thể nhẹ của thoát vị đĩa đêm khi đĩa đệm chỉ mới lồi ra sau, về phía vòng sợi bị suy yếu, nhân nhầy vẫn còn nằm trong bao xơ và thường ít gây chèn ép thần kinh, nên chưa gây đau đớn nhiều. Nhưng đây là yếu tố cốt yếu để khi gặp điều kiện thuận lợi như vận động sai tư thế, va chạm hoặc chấn thương sẽ chuyển sang thoát vị đĩa đệm.
– Trước hết, để khắc phục tình trạng đau do thoát vị đĩa đệm đa tầng cột sống cổ và phồng đĩa đệm cột sống thắt lưng. Anh cần đi khám và điều trị bằng thuốc giảm đau, chống viêm và giãn cơ theo đơn của bác sĩ. Thông thường, dùng điều trị để giảm đau chỉ kéo dài từ 7-10 ngày bởi các thuốc này rất nhiều tác dụng phụ và cũng không phải là cách chữa trị tận gốc nguyên nhân gây bệnh. Nếu anh không bị bệnh dạ dày thì có thể tham khảo 1 trong số thuốc giảm đau chống viêm như Meloxicam, Diclofenac, Celecoxib,… kết hợp với 1 trong số các thuốc giãn cơ như Decontractyl, Myonal, Mydocalm,… Nếu bị đau dạ dày, anh chỉ nên dùng Ibuprofen, Paracetamol,… nhưng cũng phải uống sau ăn no và hiệu quả giảm đau không cao.
Bởi vậy, liệu pháp dùng thuốc kể trên chỉ áp dụng trong thời gian đầu điều trị hoặc khi bị đau nhiều và không dùng kéo dài cũng như cần có sự hướng dẫn cách dùng cẩn thận của các thầy thuốc.
– Đồng thời, để giải phóng các rễ thần kinh và mạch máu bị chèn ép, nhờ đó sẽ giúp cải thiện dần tình trạng tê mỏi tay, đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, giảm dần tình trạng đau âm ỉ bằng sản phẩm chứa tiền vitamin B1 (Fursultiamin), các vitamin nhóm B, Chondroitin, Ginkgo Biloba và cao Blueberry. Sản phẩm này nên dùng đợt đầu ít nhất là 3-6 tháng, có thể dùng lặp lại từng đợt sau mỗi 3 tháng để phòng bệnh.
– Giải pháp không dùng thuốc cũng rất hiệu quả và nên áp dụng ngay từ khi phát hiện bệnh, với các bài vật lý trị liệu như massage, kéo dãn, châm cứu, bấm huyệt,…Đôi khi bác sĩ sẽ chỉ định đeo đai cố định 1 thời gian. Biện pháp này khá an toàn, cần kiên nhẫn thực hiện và nó cũng góp phần nâng cao hiệu quả điều trị. Sau khi bệnh đã ổn định, anh hãy duy trì luyện tập 1 môn thể thao phù hợp để làm chậm thoái hóa đốt sống cổ và lưng, nâng cao sức khỏe và phòng ngừa tái phát bệnh.
– Giải pháp trị tận gốc bằng cách chống thoái hóa đốt sống cổ và lưng 1 cách tích cực bằng sản phẩm chứa Canxi, vitamin D3, MK7 và các khoáng chất thiết yếu như magie, kẽm, đồng, Boron, silic, mangan,…. Anh cần chọn loại chứa Canxi dạng nano, và MK7 có hàm lượng cao (khoáng 100mcg/mỗi 2 viên) và sử dụng hàng ngày, kéo dài liên tục để đạt hiệu quả cao nhất. Giải pháp này không giúp anh hết ngay đau, nhưng sẽ giúp anh giảm nhẹ tình trạng thoái hóa bằng cách tăng mật độ xương, giảm thoái hóa khớp, giảm dần mức độ và tần suất các cơ đau, cũng như ngăn không cho bệnh tiến triển nặng hơn.
Anh chỉ cần áp dụng đồng thời 4 giải pháp trên 1 cách kiên trì, chắc chắn bệnh của anh sẽ cải thiện dần và mang lại cuộc sống thoải mái, khỏe mạnh hơn rất nhiều. Để được tư vấn thêm, hãy gọi 1900.1259.
Chúc anh mau chóng bình phục!
Thực phẩm chức năng Viên uống VỮNG CỐT VINH GIA – Giúp vận động dẻo dai Đặc biệt , chứa Vitamin D3 và MK7, cùng đa dạng các dưỡng chất thiết yếu như: Calci Carbonat, Magie, đồng, kẽm, Boron, Mangan, DHA, Quercetin, giúp xương khớp luôn chắc khỏe, dẻo dai. Trong đó CalciCarbonat dạng Nano nên rất dễ hấp thu. Sử dụng Vững Cốt hàng ngày giúp Giúp phòng và hỗ trợ điều trị loãng xương, ngừa gãy xương do loãng xương. Bảo vệ và giúp xương chắc khỏe, dẻo dai. Làm chậm quá trình thoái hóa xương sinh lý ( do tuổi). Sản phẩm phù hợp cho người trên 18 tuổi trong các trường hợp sau : – Những người bị loãng xương hoặc có nguy cơ bị loãng xương do thể chất kém phát triển từ tuổi nhỏ, sinh đẻ nhiều, tiền mãn kinh và mãn kinh, chế độ dinh dưỡng thiếu chất hoặc dùng nhiều rượu bia hay thuốc lá, ít vận động thể lực, do bệnh lý, do dùng một số loại thuốc như corticoid,… – Những người muốn xương chắc khỏe, chăm sóc sức khỏe. Phân phối bởi: CÔNG TY CP DƯỢC PHẨM VINH GIA Địa chỉ: Số 116 Trần Bình, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội. Hotline : 0904758181 GPQC số : 844/2015/XNQC-ATTP . Website https://www.duocphamvinhgia.vn – http://vungcot.vn Sản phẩm có bán tại các hiệu thuốc trên toàn quốc! Sản phẩm không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh. |
Sau khi bị ngã khoảng 2 tháng, tôi thấy cột sống vùng thắt lưng bắt đầu bị đau nhiều hơn. Thời gian gần đây, chân phải cũng đau nhức dọc theo chân; khi ngủ, chỉ cần thay đổi tư thế là đau. Xin hỏi, tôi mắc bệnh gì, chữa trị ở đâu?
Vũ Văn Thùy (Nam Định)
Theo những gì bạn mô tả, có thể tạm kết luận: Bạn bị thoát vị đĩa đệm, dẫn đến làm hẹp ống sống, đồng thời có kèm thêm tình trạng co rút cơ bụng sống nên gây ra tình trạng đau khi cử động vùng cột sống.
Bạn nên đến bệnh viện có chuyên khoa chấn thương chỉnh hình hoặc thần kinh điều trị. Các bác sĩ có thể sẽ cho làm một số xét nghiệm như chụp CT scanner hay MRI để xác định mức độ hẹp ống sống hay tình trạng chèn ép rễ thần kinh để từ đó có hướng xử trí thích hợp. Thông thường, các bác sĩ sẽ cho bạn dùng thuốc paracetamol, tập vật lý trị liệu dưới nước. Nếu điều trị nội khoa đúng phương pháp và có chế độ nghỉ ngơi hợp lý, bạn sẽ khỏi bệnh. Khi những biện pháp này thất bại có thể dùng tới biện pháp giảm đau bằng kỹ thuật tiêm thấm các dẫn xuất của cortisone, các dẫn xuất của opioide (do sự chỉ định của bác sĩ) nhưng cần phải cẩn thận. Trong những trường hợp có tổn thương thần kinh nặng dẫn đến teo cơ, rối loạn tiêu tiểu thì phải chỉ định phẫu thuật giải ép.
BS. Thanh Xuân
Tôi 35 tuổi, bị đau vùng cổ gáy lan ra vai và cánh tay, gần đây tôi thấy tê ở các ngón tay, đặc biệt tê tăng khi điều khiển xe gắn máy. Tôi đi khám chụp cộng hưởng từ chẩn đoán thoát vị đĩa đệm cột sống cổ. Xin bác sĩ tư vấn về bệnh và cách chữa thế nào?
Đặng Ngọc Thịnh ([email protected])
Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ thường được chia thành hai nhóm: nhóm bệnh lý rễ và nhóm bệnh lý tủy. Ở nhóm bệnh lý rễ, biểu hiện nổi bật thường là đau và tê. Đau cổ gáy, thường lan ra vai và xuống tay, làm hạn chế vận động của tay khi đưa ra sau (gãi sau lưng) hoặc lên cao (chải đầu). Thông thường đau nhức nhối, khó chịu nhưng đôi khi đau biểu hiện giống như mỏi, mơ hồ và không rõ ràng. Rất nhiều người bệnh có biểu hiện đau ở một bên thành ngực hoặc ở vùng cột sống giữa hai bả vai. Tê ở vùng cẳng tay, bàn tay và các ngón tay, tăng lên sau khi làm việc nhiều hoặc lái xe gắn máy. Nếu các ngón tay bị tê, người bệnh sẽ có cảm giác khác lạ khi cầm nắm các đồ vật.
Nhiều người bệnh có biểu hiện của cả bệnh lý rễ lẫn bệnh lý tủy. Ở nhóm bệnh lý tủy, biểu hiện nổi bật thường là tê và yếu liệt. Tê thường bắt đầu ở vùng thân mình, đặc biệt ở vùng bụng trước, sau đó là hai chân và hai tay làm cho người bệnh hay bị rớt dép hoặc dễ vấp ngã. Khi bệnh nặng, người bệnh đi lại khó khăn…
Về điều trị khi chưa có dấu hiệu của thương tổn thần kinh trong bệnh lý rễ hoặc chưa có biểu hiện của bệnh lý tủy, các bác sĩ sẽ áp dụng các biện pháp điều trị bảo tồn gồm vật lý trị liệu và dùng thuốc như các thuốc kháng viêm, giãn cơ và giảm đau. Kết hợp kéo giãn, kích thích điện… cũng mang lại hiệu quả rất cao. Phẫu thuật khi điều trị nội khoa không tiến triển hoặc biến chứng chèn ép gây liệt.
BS. Đinh Thị Thanh
Thu Nguyệt(Hà Nội)
Bệnh thoát vị đĩa đệm chèn ép vào rễ thần kinh, tủy sống gây các triệu chứng đau, tê, teo cơ, liệt cơ.
Khi rễ thần kinh bị tổn thương thì bệnh nhân khó vận động các chi. Nếu tổn thương thần kinh cánh tay thì bệnh nhân không thể nhấc tay hay khó gấp, duỗi cánh tay, khả năng lao động và sinh hoạt bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Bệnh có thể để lại những hậu quả và những biến chứng nguy hiểm cho người bệnh. Người bệnh có thể bị tàn phế do bị liệt trong trường hợp đĩa đệm thoát vị chèn ép tuỷ cổ. Khi bị chèn ép các dây thần kinh vùng thắt lưng cũng có thể dẫn đến đại tiểu tiện không tự chủ do rối loạn cơ tròn. Các chi dần bị teo cơ, có thể mất khả năng lao động và vận động.
Đối với bệnh này, bác phải điều trị kiên trì theo đúng liệu trình do bác sĩ chỉ định.
BS. Nguyễn Vũ
Tôi 47 tuổi, thể trạng béo khỏe, năng tập luyện thể thao nhưng thỉnh thoảng lại bị đau vùng thắt lưng. Vừa qua đau tăng lan xuống chân, đi lại khó khăn nên tôi đi khám, chụp Xquang, kết quả bị thoái hóa và thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. Xin hỏi vì sao bị bệnh và cần làm gì để trị bệnh?
Phạm Chiến Thắng ([email protected])
Thoái hóa cột sống thắt lưng là tình trạng thoái hóa của sụn khớp và đĩa đệm (ở cột sống thắt lưng), phối hợp với sự thay đổi phần xương dưới sụn và màng hoạt dịch, gây đau, hạn chế vận động và chèn ép vào rễ thần kinh. Là hậu quả của quá trình lão hóa và tình trạng chịu áp lực quá tải kéo dài của sụn và đĩa đệm cột sống. Thường gặp thoái hóa và thoát vị cột sống lưng ở những người lao động nặng, tư thế sai lệch… Nếu bị nặng có thể gặp biến chứng chèn ép thần kinh hông to (hay đau thần kinh tọa), biểu hiện đau dọc xuống đùi, cẳng chân và gót chân; thậm chí chèn ép đám rối thần kinh cùng gây hội chứng đuôi ngựa rất nguy hiểm.
Người bị thoái hóa cột sống hay các khớp nói chung đầu tiên là phải giảm cân nếu thừa cân; cần có chế độ tập luyện thể dục thể thao hợp lý, bảo vệ cột sống tránh quá tải và chế độ ăn giàu canxi vừa có tác dụng điều trị vừa giảm tái phát bệnh; nên nằm nghỉ ngơi khi đau cấp (nằm đệm hay giường cứng…). Tránh các động tác làm căng cơ như bê vật nặng không đúng tư thế; không tập các môn thể thao ảnh hưởng đến cột sống. Tốt nhất là nên tập môn bơi lội, tắm nước nóng… Nếu có biểu hiện chèn ép, điều trị nội khoa không hiệu quả có thể cần phẫu thuật thay đốt sống bị tổn thương. Anh nên khám và điều trị tại chuyên khoa cột sống.
BS. Đinh Thị Thanh
Cần điều trị sớm cho bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cột sống (TVĐĐCS) cổ, khi thoái hóa cột sống cổ đã quá nặng, ổ thoát vị đã quá lớn chèn ép tủy sống gây phù dập tủy, tổn thương tủy. Ở mức độ nhẹ có thể bại hai chi trên, nặng hơn nữa có thể bại tứ chi.
TVĐĐCS chiếm khoảng 80% bệnh lý của cột sống, trong đó thoát vị đĩa đệm cột sống cổ đứng thư 2 sau thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng.
Nguyên nhân TVĐĐCS cổ chủ yếu là do quá trình thoái hóa đan xen giữa quá trình thoái hóa sinh học (lão suy) với quá trình thoái hóa bệnh lý (bệnh lý xương khớp, dị dạng cột sống, rối loạn nội tiết, rối loạn chuyển hóa, nhiễm trùng, bệnh béo phì…) và các sang chấn tạo nên (sang thương, vi sang thương ) trong đời sống lao động khác nhau của mỗi người, đặc biệt là những người có hoạt động gây tặng lực chịu tải lên cột sống cổ. Ngoài ra còn có thể do một vài yếu tố khác như: yếu tố di truyền, yếu tố miễn dịch.
TVĐĐCS cổ có thể xem như là hậu quả của thoái hóa xương – sụn gian đốt sống trong bệnh cảnh thoái hóa cột sống. Quá trình thoái hóa đĩa đệm luôn diễn ra trước khi xuất hiện thoát vị đĩa đệm, trừ trường hợp thoát vị đĩa đệm do chấn thương ở lứa tuổi trẻ. Nhân nhầy đĩa đệm bị thoái hóa trước tiên, biểu hiện bằng sự giảm lượng nước trong nhân nhầy và hàm lượng Proteoglycan, collagen. Sự suy giảm này khiến cho nhân nhầy giảm khả năng đàn hồi, giảm khả năng căng phồng dưới tác động của lực chịu tải và tính bền vững của đĩa đệm, làm giảm đi khả năng hấp thụ lực tải trọng.
Quá trình thoái hóa đĩa đệm làm đứt gãy các bó sợi collagen phía trong bao xơ, vốn là một cấu trúc rất yếu, tiếp đến là sự đứt gãy của các bó sợi collagen đi từ lớp trong ra lớp ngoài. Các bó sợi của vòng xơ đứt gãy tạo điều kiện cho nhân nhầy thoát ra chỗ đứt rách và gây nên thoát vị. Nếu nhân nhầy nằm trong chỗ bao xơ đã bị đứt gãy đi ra khỏi vị trí giải phẫu bình thường, nhưng còn giữ được độ căng phồng ở một mức độ nào đó, lúc này TVĐĐCS cổ thực chất là thoát vị nhân nhầy.
Gần như hầu hết TVĐĐCS cổ cũng như thắt lưng đều là hậu quả của một quá trình thoái hóa cột sống, gây ra nhiều biến đổi về hình thái cấu trúc bệnh lý khác nhau. Sự thay đổi hình thái trúc cụ thể ở cột sống cổ có thể diễn ra như: mất đường cong sinh lý, gãy xẹp thân đốt sống, trượt đốt sống, thoát vị vào thân đốt sống, viêm và thoái hóa xương dưới sụn ở các giai đoạn khác nhau, thoái hóa các hệ thống dây chằng, thoái hóa gai xương mỏm móc gây chít hẹp ống sống lỗ liên hợp và lỗ động mạch đốt sống. Sự thay đổi hình thái cấu trúc bệnh lý này có thể dẫn đến sự kích thích hay chèn ép bao màng cứng, rễ thần kinh, đông mạch cột sống cổ, nặng hơn nữa của thoát vị cột sống cổ là sự chèn ép lên tủy cổ, gây ra phù dập tủy cổ, tổn thương tủy dẫn tới mất khả năng khéo léo của của bàn tay, bại 2 cánh tay, nặng hơn nữa là liệt tứ chi.
TVĐĐCS cổ: quá trình thoái hóa thường diễn ra âm thầm lặng lẽ trong một thời gian dài trước khi xuất hiện thoát vị đĩa đệm và những biến đổi về hình thái cấu trúc bệnh lý nêu trên. Vì vậy, khi chúng ta ở lứa tuổi từ 30 trở lên có dấu hiệu đau tê bì vùng sau cổ lan xuống bả vai, cánh tay, bàn tay và ngón tay, các dấu hiệu này gợi ý một bệnh cảnh TVĐĐCS cổ đấy, bạn nên đến các bác sĩ chuyên khoa để được khám và tư vấn. Bác sĩ sẽ tư vấn cho bạn những xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán chính xác và phương pháp điều trị. Nếu đúng là thoát vị, bạn cần nên điều trị sớm. Thầy thuốc nào cũng đều khuyên bệnh nhân nên dự phòng và điều trị sớm thoái hóa cột sống và thoát vị đĩa đệm khi còn rất nhẹ. Dự phòng và điều trị thoái hóa cột sống sớm có thể không để xãy ra thoát vị đĩa đệm hoặc nếu có bị thoát vị thì cũng ở mức nhẹ mà không cần can thiệp phẫu thuật. Đừng bỏ qua cơ hội khi TVĐĐCS cổ còn ở giai đoạn nhẹ có thể điều trị ổn định bằng phương pháp bảo tồn hay phương pháp vi sang thương (không phẫu thuật) với kết quả tốt. Điều trị sớm khi vòng xơ chưa đứt rách nhiều, thoát vị lồi ra còn nhỏ, điều này giúp cho đường rách của vòng xơ dễ khép kín lại với nhau hơn và có khả năng tạo thành vết sẹo, tránh được sự tái phát như trong mổ hở
Theo PGS.TS. Bùi Quang Tuyển trích từ tài liệu của nhiều tác giả nước ngoài cho thấy: có tới 80 – 85% các trường hợp điều trị bảo tồn không mang lại kết quả, không hết đau, bệnh nhân chỉ giảm đau tạm thời trong thời gian điều trị và tái phát đau sau khi ngừng điều trị.
Tuy vậy khi điều trị bảo tồn không mang lại kết quả, đó là lúc cần can thiệp phẫu thuật (mổ hở) hoặc sử dụng các phương pháp vi sang thương (không mổ hở ). Phương pháp nào thì cũng có những ưu thế và hạn chế của nó.
Phương pháp phẫu thuật: chúng tôi tổng hợp nhiều tài liệu của các tác giả trong và ngoài nước cho thấy biến chứng của phẫu thuật cột sống cổ như: tổn thương động mạch cảnh gốc, khí quản, thực quản, chấn thương tủy sống hoặc chấn thương rễ thần kinh quặt ngược gây (nói khàn), đau khi nuốt, nhiễm trùng sau mổ, tụ máu vết mổ, viêm đĩa đệm vô khuẩn, sẹo có thể gây chèn ép rễ thần kinh, dò dịch não tủy, mổ nhầm đĩa đệm do xác đinh sai vị trí. Trong trường hợp ghép xương và đặt nẹp vít cổ định, mảnh ghép có thể bị viêm, tiêu mãnh ghép, vỡ mảnh ghép, trật ra ngoài khỏi vị trí, tái phát thường trên dưới 10%. Trong trường hợp phải phẩu thuật thay đĩa đệm nhân tạo với các loại chất liệu khác nhau cũng có thể gặp biến chứng như: trật đĩa đệm, tuột vít, gãy vít, sau phẫu thuật cột sống cổ có biến dạng. Phương pháp ghép xương tự thân có thể tạo cho cột sống vững chắc, tránh khớp giả, tuy nhiên việc hàn cứng khớp kiến cho các động tác cổ ít nhiều bị hạn chế và tăng nguy cơ thoái hóa đốt sống liền kề và thoát vị có thể lại xảy ra ở các ở các đĩa đệm khác. Theo PGS.TS. Bùi Quang Tuyển, trích từ tài liệu của McCulloch (1998) biến chứng tử vong có thể xảy ra với tỉ lệ dưới 1% ngay cả khi sử dụng phương pháp mổ vi phẩu.
Phương pháp giảm áp đĩa đệm cột sống bằng laser qua da là 1 trong 6 phương pháp vi sang thương được nhiều nước trên thế thế giới áp dụng. Do nhiều lý do và tính toán sự ưu thế của mỗi phương pháp, chúng tôi đã chọn phương pháp dùng laser để giảm áp đĩa đệm cột sống cổ bị thoát vị. Trong 18 năm thực hiện phương pháp giảm áp đĩa đệm cột sống bằng laser qua da để điều trị thoát vị đĩa đệm cho những bệnh nhân, mà ở những bệnh nhân này nằm trong diện có chỉ định và có nguyện vọng được thực hiện được với phương pháp giảm áp đĩa đệm bằng laser qua da, chúng tôi gặp TVĐĐCS cổ chiếm 25%, cột sống thắt lưng chiếm 71% và thoát vị cột sống cả cổ và thắt lưng chiếm 5%..
Theo tài liệu của nhiều tác giả trên thế giới thì cứ 100 bệnh nhân có chỉ đinh phẫu thuật TVĐĐCS thì có tới 80 bệnh nhân có thể thực hiện được bằng các phương pháp vi sang thương (không phẫu thuật) và phẫu thuật nội soi vi phẫu cũng được xem như là phương pháp vi sang thương.
Khi đã quá nặng cần tới các phẫu thuật có ghép xương tự thân, đặt nẹp vít, thay đĩa đệm thì chi phí cho điều trị là rất lớn và kết quả cũng hạn chế. Trong phẫu thuật thay đĩa đệm, chỉ tính riêng tiền phải mua mỗi đĩa đệm cũng đã tốn vài chục triệu, tùy theo từng loại.
PGS.TS.BS. TRẦN CÔNG DUYÊT
(Website vienngoaikhoalaser.vn)
Nhiều người mắc thoát vị cột sống cổ lo lắng trong việc lựa chọn phẫu thuật. Trên thực tế, việc sử dụng vi phẫu thuật trong mổ thoát vị đĩa đệm cột sống cổ đã trở nên quen thuộc cùng với nhiều tiến bộ về kỹ thuật và vật liệu. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về phương pháp này.
Việc sử dụng kính hiển vi phẫu thuật đã làm thay đổi sâu sắc toàn bộ công nghệ điều trị phẫu thuật đối với thoát vị đĩa đệm cột sống cổ.
Mổ vi phẫu với kính hiển vi giúp đường mổ được rạch ngang, chỉ rạch hình chữ Z khi có quá nhiều đĩa đệm được mổ cùng lúc. Như vậy, về mặt thẩm mĩ sẽ tốt hơn, đa số người bệnh không còn bị mặc cảm khi mọi người cứ săm soi vào cái cổ của mình. Ngoài ra, do việc giảm đi chiều dài và độ rộng của vết mổ, khả năng gây thương tổn cho các cấu trúc lân cận vùng mổ như khí quản, thực quản, mạch máu và các dây thần kinh giảm đi. Với ưu thế về khả năng chiếu sáng và phóng đại của kính hiển vi phẫu thuật, cùng với sự phát triển của các thế hệ khoan mài cao tốc ngày càng nhanh, ngày càng êm và ngày càng nhỏ, gọn, nhẹ, việc xử lí các chồi xương hoặc dây chằng vùng khối thoát vị bị cốt hóa trở nên dễ dàng hơn. Đồng thời với những tiến bộ trên, sự tiến bộ trong công nghiệp chế tạo các hệ thống nẹp vít cố định cột sống cổ lối trước, số đĩa đệm có thể mổ cùng một lúc bằng đường mổ phía trước ngày càng nhiều.
Hiện nay, mổ thoát vị đĩa đệm cột sống cổ đã được áp dụng quy trình chuẩn. Bệnh nhân được gây mê toàn thân, đặt nằm ngửa trên bàn mổ với cổ hơi ngửa.
Hình ảnh thoát vị đĩa đệm cột sống cổ.
Da được rạch ở một bên cổ tùy theo thói quen và tay thuận của phẫu thuật viên. Da được rạch ngang, trong trường hợp mổ 3 hoặc 4 đĩa đệm cùng một lúc có thể phải rạch da hình chữ Z. Các lớp màng gân (gọi là cân cơ) ở cổ được tách ra theo chiều dọc để không phải cắt ngang qua các cơ vùng cổ. Các dây thần kinh và mạch máu được bóc tách và đẩy ra ngoài hoặc vào trong, khí quản và thực quản cũng được tách sang một bên. Mặt trước cột sống cổ được bộc lộ và banh ra bằng các dụng cụ chuyên biệt, được đánh dấu, sau đó chỗ đánh dấu được chụp Xquang bằng một loại máy chiếu gọi là C-arm (cánh tay hình chữ C) để xác định chính xác vị trí cần mổ. Sau khi xác định đúng vị trí cần mổ, kính hiển vi phẫu thuật được đưa vào và bác sĩ bắt đầu nhìn vào kính để mổ. Toàn bộ dây chằng, sụn và nhân nhầy xơ hóa của đĩa đệm bị bệnh được lấy ra. Đến đây thì bác sĩ sẽ tăng độ phóng đại của kính hiển vi phẫu thuật nhằm tìm ra chỗ dây chằng dọc sau bị xé rách để từ đó lấy ra được các mảnh vỡ của khối thoát vị. Khoan mài cao tốc với mũi khoan kim cương được sử dụng để mài đi các chồi xương, giải phóng tủy sống. Sau khi kiểm tra thấy tủy sống và các dây thần kinh đã được giải phóng, các đầu xương sẽ được làm sạch để tăng độ liền xương cho mảnh ghép. Một mảnh ghép được đặt vào chỗ mà đĩa đệm mới được lấy đi. Sau đó, bề mặt của mặt trước cột sống cổ được làm sạch và làm phẳng và một nẹp cột sống cổ được đặt lên mặt trước cột sống và cố định bằng các vít bắt vào các đốt sống ở hai đầu trên và dưới của mảnh ghép. Vết mổ được kiểm tra, cầm máu và đóng lại.
Trước kia, người ta lấy xương chậu để làm mảnh ghép. Mảnh ghép lấy từ xương chậu của chính người bệnh được gọi là mảnh ghép tự thân, về mặt miễn dịch nó là tốt nhất. Tuy nhiên, chất lượng của mảnh xương ghép chỉ tốt khi người bệnh không có loãng xương và các bệnh mạn tính khác. Kĩ thuật lấy mảnh ghép cũng quyết định chất lượng của mảnh ghép. Ngoài ra, những vấn đề liên quan đến nơi lấy mảnh ghép như nhiễm trùng, đau, hoại tử da, thương tổn thần kinh và mạch máu… là những biến chứng thường gặp, làm cho các bác sĩ phải e ngại.
Hiện nay, các bác sĩ có xu hướng dùng các vật liệu nhân tạo (titanium hoặc peek) không gây kích ứng đối với cơ thể làm thành một cái khung bên trong có thể nhồi các xương ghép (xương tự thân hoặc xương nhân tạo) để làm cầu nối cho xương của người bệnh mọc ra, nối liền hai đốt sống được cố định.
Việc ghép xương và cố định, hàn các đốt sống lại với nhau có ưu điểm là bất động tốt, khu vực mổ không còn bị viêm hay tạo thành khớp giả gây đau. Tuy nhiên, do có một hoặc vài khớp của cột sống cổ bị hàn cứng, lực tác động lên cột sống khi người bệnh cúi, ngửa, nghiêng, xoay cổ sẽ tăng lên ở khu vực các đĩa đệm kế cận với chỗ được hàn cứng, từ đó, khả năng xảy ra thoát vị thêm nữa là khá cao.
Sau cuộc mổ thoát vị đĩa đệm cột sống cổ đường trước, người bệnh thường bị đau khi nuốt. Nếu chịu khó uống nước, nói chuyện, tập nuốt thì sau 4 – 5 ngày, đau giảm đi nhiều. Trong trường hợp đặt mảnh ghép và cố định nẹp vít cột sống cổ, người bệnh phải mang nẹp cổ cứng từ 3 – 6 tuần. Nẹp cổ thường làm cho người bệnh khó chịu do cấn vào hàm, vào vai, xương đòn gây đau. Ngoài ra, sau vài ngày đầu mang nẹp cổ cứng, người bệnh có cảm giác mỏi và cứng gáy và hai vai. Cảm giác này ngày càng tăng cho đến khi bỏ nẹp cổ và tập cúi ngửa nghiêng cổ vài ngày mới giảm và sau đó khoảng 6 tuần mới có thể hết mỏi và đau nếu tích cực tập luyện.
BS. Võ Xuân Sơn
Bệnh có thể gây ra nhiều biến chứng, rối loạn khác nhau, vì vậy khi phát hiện bệnh phải xử lý kịp thời tránh nguy hiểm cho người bệnh.
Theo thống kê thì khoảng 90% số ca thoát vị đĩa đệm bị thoát vị ở đoạn cột sống thắt lưng, gây đau và đau lan xuống các dây thần kinh hông. Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưngsẽ gây áp lực lên dây thần kinh, vị trí này rất hay xảy ra thoát vị đĩa đệm.
Cơn đau do thoát vị đĩa đệm thường tái phát nhiều lần, cơn đau có tính chất cơ học tăng khi lao động và giảm khi nghỉ ngơi, mỗi đợt kéo dài khoảng 1 – 2 tuần, sau đó lại khỏi. Có khi đau âm ỉ nhưng thường đau dữ dội, đau tăng khi ho, hắt hơi, cúi. Ngoài ra còn có cảm giác kiến bò, tê cóng, kim châm tương ứng với vùng lưng – mông – chân mà rễ thần kinh bị chèn ép chi phối. Đối với thoát vị đĩa đệm cột sống cổ, thường có triệu chứng như: đau vùng cổ, gáy, vai, dọc theo cánh tay; tê cánh tay, bàn tay, các ngón tay; teo, yếu cơ cánh tay, ngón tay. Đối với thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng, thường có triệu chứng như: đau, tê vùng thắt lưng, mông, dọc theo đùi, cẳng chân, bàn chân; teo, yếu cơ đùi, cẳng chân, bàn chân. Dần dần, đau trở nên thường xuyên, kéo dài hàng tháng nếu không được điều trị. Khả năng vận động của bệnh nhân bị giảm sút rõ rệt.
Sau giai đoạn đau thắt lưng cục bộ, bệnh nhân sẽ bị đau rễ thần kinh do quá trình tổn thương kích thích rễ thần kinh. Các cơn đau rễ thần kinh thường xuất hiện theo đường đi mà rễ thần kinh chi phối, kéo dài từ thắt lưng và lan rộng đến mông và chân. Khi người bệnh ho, hắt hơi, di chuyển, đứng hoặc ngồi lâu cũng khiến cơn đau tăng mạnh. Trong quá trình di chuyển, người bệnh thường xuyên phải dừng lại một đoạn để nghỉ, do các cơn đau xuất hiện nhiều lần, cản trở lớn đến các hoạt động thường ngày.
Biến chứng rối loạn cảm giác thường xảy ra ở những khoảng da tương ứng với rễ thần kinh bị tổn thương, phổ biến nhất là cảm giác nóng, lạnh và xúc giác.
Rối loạn vận động: người bệnh có thể bị bại liệt ở 2 chân do rễ thần kinh chi phối.
Rối loạn cơ tròn: biểu hiện lúc đầu là bí tiểu, sau đó tiểu không thể kiểm soát được, luôn có nước tiểu chảy rỉ ra do cơ thắt kiểu ngoại vi bị liệt không thể giữ nước tiểu.
Tùy thuộc vào mức độ và những triệu chứng lâm sàng mà bác sĩ quyết định điều trị nội khoa hay chỉ định phẫu thuật. Đối với thoát vị mức độ nhẹ có thể dùng thuốc, thực hiện các bài tập, vật lý trị liệu phục hồi chức năng. Nếu thoát vị nặng, khối thoát vị chèn ép vào dây thần kinh có thể gây biến chứng như: liệt, teo cơ, rối loạn cơ tròn, đau quá mức không đáp ứng với thuốc giảm đau thì phẫu thuật là phương pháp giúp bệnh nhân giải phóng chèn ép thần kinh và tránh các biến chứng do thoát vị gây ra. Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị như làm giảm áp lực nhân đĩa đệm như: đưa sóng radio vào vùng đĩa đệm thoát vị làm cho khối thoát vị bị thu nhỏ, trở về vị trí cũ, giải phóng thần kinh bị chèn ép; dùng hiệu ứng nhiệt của tia laser để hủy phần đĩa đệm thoát vị, giải phóng chèn ép thần kinh; Lấy nhân đệm bằng phương pháp mổ hở, mổ nội soi, mổ ít xâm lấn…
Thông thường thì nếu bệnh ở giai đoạn đầu, các triệu chứng ít xuất hiện hoặc cơn đau không dai dẳng, không phải cơn đau cấp thì có thể điều trị bằng phương pháp bảo tồn dùng thuốc có tác dụng giảm đau và giảm co thắt cơ bắp. Nghỉ ngơi tại giường trong một tư thế thoải mái khiến cho bạn cảm thấy bớt đau hơn nhưng cũng cần chú ý không nên nằm quá lâu.
Vật lý trị liệu có thể bao gồm liệu pháp dùng nhiệt, siêu âm và kéo giãn.
Chỉ định phẫu thuật khi: điều trị nội khoa thất bại sau 3 – 6 tuần; liệt rễ thần kinh cấp tính, bệnh nhân đau quá mức không đáp ứng với thuốc giảm đau; thoát vị đĩa đệm gây rách bao xơ và dây chằng dọc sau, thoát vị di trú. Ngoài ra,còn có một trường hợp đặc biệt cần can thiệp mổ cấp cứu.
Từ ngày thứ 3 có thể đứng dậy với sự trợ giúp của y tá và sự hướng dẫn của nhân viên vật lý trị liệu.
– Để đứng lên: trong khi đang ở tư thế nằm, co chân lại, xoay nghiêng sang một bên, chân rời khỏi thành giường, đồng thời dùng tay đẩy người lên, rồi đứng thẳng lên.
– Để nằm xuống: làm ngược lại với tư thế đứng lên.
Trong 4 ngày đầu nên tránh ngồi lâu, tuy nhiên có thể ngồi khi thay đổi tư thế và đi vệ sinh.
Phải đi lại đều đặn. Không ở trên giường suốt ngày, như đi dạo, ra khỏi phòng, nếu có thể. Thử đi lên hay xuống cầu thang, nếu không có điều kiện tập phục hồi chức năng, thì chú ý một vài lời khuyên sau: như không nên gắng sức, cần phải tránh vận động mạnh làm xuất hiện những dấu hiệu như mệt mỏi hay đau.
Đối với thoát vị mức độ nhẹ có thể dùng thuốc, thực hiện các bài tập, vật lý trị liệu phục hồi chức năng
Phải nghỉ làm việc trong vòng 2 – 3 tuần. Như vậy phải chuẩn bị làm việc trở lại sau giai đoạn này. cũng như vậy trong thời gian dưỡng bệnh không nên chỉ ở trên giường hay không làm gì cả. nếu cần có thể xin lời khuyên của bác sĩ vật lý trị liệu.
Trong thời gian chờ đợi nên biết rằng:
Cần phải đi lại đều đặn.
Cần phải ngồi dậy đều đặn. đầu tiên để ăn uống, rồi càng ngày càng tăng.
Hoạt động cũng sẽ phải tăng dần dần. Không quá thận trọng, không mang vác nặng, không làm những cử động với biện độ lớn của lưng. dần dần những vận động hàng ngày trở lại như đi lại, bơi, nấu ăn, nội trợ, lái ô tô từ sau một vài tuần.
Tuy nhiên những hoạt động thể lực nên tránh như: thể thao trong vòng 3 tháng, đẩy máy hút bụi tránh trong vòng 1 tháng, đi xe ô tô đường dài trong vòng 2 tháng…
Vấn đề quan trọng là để điều trị tốt nhất không nên không hoạt động.
TS.BS. NGUYÊN VŨ
(Phó trưởng Khoa Ngoại thần kinh cột sống và Chấn thương chỉnh hình BV Đại học Y Hà Nội)
Bệnh gây đau thắt lưng và có thể gây biến chứng, thậm chí gây tàn phế nếu không được điều trị sớm và đúng.
Đĩa đệm được cấu tạo bởi 3 thành phần chính là nhân nhầy, vòng sợi và mỏm sụn và có cấu trúc dạng thớ sợi chắc, xếp theo hình vòng tâm, chứa nhân keo (tức là nhân nhầy đĩa đệm). Đĩa đệm có khả năng đàn hồi và biến dạng khi bị nén và đĩa đệm cũng có vai trò làm giảm chấn động tới các thân đốt sống. Vì vậy, người ta ví đĩa đệm như một bộ phận có tác dụng “làm giảm xóc”.
Thoát vị đĩa đệm cột sống xảy ra khi nhân keo của đĩa đệm thoát ra ngoài và chèn ép vào rễ thần kinh, tủy sống, hay nói cách khác nó là tình trạng đĩa đệm bị ép lồi ra khỏi vị trí bình thường, giữa các đốt sống. Thoát vị đĩa đệm thường tập trung ở các dạng chính là thoát vị đĩa đệm đốt sống cổ và thoát vị đĩa đệm đốt sống thắt lưng. Khi thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng có chèn ép vào rễ dây thần kinh tọa (thần kinh hông) sẽ gây chứng đau thắt lưng và đau lan xuống chân (đó là đau dây thần kinh tọa). Trong bài viết này chỉ đề cập đến thoát vị cột sống thắt lưng.
Hình ảnh thoát vị đĩa đệm.
Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng là một bệnh hay gặp nhất, vì đây là vị trí chịu nhiều tác động khác nhau trong cuộc sống hằng ngày. Thoát vị xảy ra do đứt, rách vòng sợi. Hướng của thoát vị đĩa đệm có thể ra sau, lệch bên, vào lỗ ghép gây chèn ép rễ, dây thần kinh vùng cột sống thắt lưng. Cũng có thể ra trước hoặc vào thân đốt, vì vậy, sau đợt cấp thường có hội chứng đau cột sống thắt lưng mạn tính. Vị trí thoát vị thường ở L4 – L5 và S1 do hai đĩa đệm này là bản lề vận động chủ yếu của cột sống. Nguyên nhân quan trọng nhất là do chấn thương, đặc biệt gặp ở người có thoái hóa cột sống thắt lưng, thóai hóa đĩa đệm. Bên cạnh đó phải kể đến yếu tố chấn thương ở những người bệnh đã thoái hóa cột sống thắt lưng. Nguyên nhân thứ hai, đó là do tác động cơ học kết hợp với tiền sử đã thoái hóa cột sống thắt lưng như làm một số hoạt động lặp đi lặp lại liên quan đến việc cúi gập người hoặc vặn xoay người quá mức, hoặc chơi các môn thể thao tác động mạnh (bóng đá, bóng chuyền, bóng chày, bóng rổ, chạy…); có thể xảy ra ở người béo phì do trọng lượng của cơ thể sẽ gây áp lực lên phần đĩa đệm ở thắt lưng hoặc ở người có tiền sử cong vẹo cột sống (bẩm sinh hoặc do ngồi sai tư thế). Với người cao tuổi, do lão hóa xương khớp, nặng hơn là thoái hóa cột sống, đặc biệt là cột sống thắt lưng, khi bưng bê vật nặng sai tư thế. Ngoài ra, một số tác giả còn đề cập đến yếu tố di truyền (nếu bố, mẹ bị mắc chứng bệnh này). Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều người do đặc thù nghề nghiệp như ngồi lâu, ngồi nhiều giờ, lặp đi lặp lại nhiều tháng, nhiều năm cũng có thể gây nên thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng.
Đau thắt lưng là triệu chứng gần như lúc nào cũng có. Đau theo đường đi của rễ, dây thần kinh hông to, kèm theo lệch vẹo cột sống thắt lưng, co cứng cơ cạnh sống, tầm vận động cột sống thắt lưng giảm rõ rệt, thậm chí không thể cử động được trong một thời gian vài ba ngày, có khi lâu hơn và phải dùng thuốc giảm đau, giảm co cơ mới cử động được. Về sau, mỗi khi có những gắng sức tương tự, đau lại tái phát. Người bệnh khó thực hiện các động tác cột sống như cúi ngửa, nghiêng xoay người. Khi đã có sự chèn ép thần kinh, có các triệu chứng đau lan xuống chi dưới làm cho vận động chi dưới khó khăn. Người bệnh sẽ đau tăng khi đứng, đi, hắt hơi, rặn và nếu người bệnh được nằm nghỉ ngơi sẽ đỡ đau.
Khi bị thoát vị, nếu không được xử trí kịp thời có thể trở thành bệnh mạn tính gây đau thắt lưng thường xuyên. Nếu có chèn ép thần kinh tọa và rễ thần kinh sẽ gây đau nhức, buốt ra vùng mông, dọc theo đùi xuống cẳng chân, mu bàn chân và ngón chân (đặc biệt là đau rát mu bàn chân phía bên có dây thần kinh tọa bị chèn ép). Bệnh tiến triển có thể gây teo cơ làm hạn chế vận động và đại tiểu tiện khó khăn do rối loạn cơ tròn, thậm chí phải thụt tháo và thông tiểu. Biến chứng này làm ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống và sinh hoạt của người bệnh.
Để phòng bệnh này cần hết sức tránh mang, vác, bưng, bê vật nặng sai tư thế. Tránh ngồi lâu, nhiều giờ liền, vì vậy, giữa các giờ làm việc nên đứng dậy, đi lại và vận động cơ thể. Những người có trọng lượng quá mức cần tập và ăn uống hợp lý để giảm béo. Cần tập thể dục nhẹ nhàng thường xuyên theo tư vấn của bác sĩ.
BS. Việt Anh