sắt – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com Thông tin sức khỏe cho cộng đồng Sun, 05 Aug 2018 05:40:51 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.3 http://tapchisuckhoedoisong.com/wp-content/uploads/2018/07/cropped-Icon-browser-32x32.png sắt – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com 32 32 Tác hại khi thừa sắt http://tapchisuckhoedoisong.com/tac-hai-khi-thua-sat-13803/ Sun, 05 Aug 2018 05:40:51 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/tac-hai-khi-thua-sat-13803/ [...]]]>

Đối với các ca ngộ độc sắt cấp tính, bệnh nhân có thể xuất hiện các thương tổn trên ống tiêu hóa và gan, dẫn đến sự gia tăng nồng độ sắt cục bộ và tăng cường sản sinh các gốc tự do. Do đó, các bác sĩ cần ngay lập tức loại bỏ sắt hoặc làm giảm nhanh lượng sắt trong ruột để tránh các thương tổn mô.

Bệnh do thừa sắt

Bệnh thừa sắt hay bệnh quá tải sắt (Hemochromatosis) là một trong các bệnh có liên quan đến lượng sắt trong cơ thể, trong trường hợp này, ruột mất khả năng điều hòa lượng sắt không cần thiết, cùng với đó, sắt lại bị tích trữ quá nhiều ở gan dẫn đến sự nhiễm sắt (Siderosis- hiện tượng các mô tích trữ quá nhiều sắt) và gây thương tổn đến các cơ quan. Một người bình thường có thể hấp thụ 1mg sắt/ngày, nhưng với các bệnh nhân mắc bệnh thừa sắt, họ có thể hấp thụ tới 3mg/ngày. Trái với suy nghĩ của nhiều người, đây là một bệnh khá phổ biến, cứ 15 người sẽ có một người mắc bệnh thừa sắt. Bệnh được chia thành hai nhóm, nhóm bệnh thừa sắt do di truyền (Hereditary Hemochromatosis), nhóm còn lại là nhóm thừa sắt mắc phải (Acquired Hemochromatosis).

Tác hại khi thừa sắtBàn tay bình thường và bàn tay thừa sắt

Bệnh thừa sắt do di truyền là một bệnh bẩm sinh, ngay từ khi sinh ra, ruột đã mất khả năng điều hòa lượng sắt hấp thụ, lượng sắt “thừa” này sẽ không được bài tiết ra ngoài hay xử lý bằng một cơ chế phù hợp mà sẽ được tích trữ lại ở gan và tim. Bệnh nhân có khả năng hấp thụ tới 3mg sắt trong một ngày, và trong 40 – 50 năm, 20 – 40g sắt sẽ được tích trong cơ thể, đặc biệt là ở gan và tim. Việc phát hiện sớm bệnh này ở trẻ chủ yếu vẫn dựa trên thí nghiệm đo lượng Ferritin trong huyết thanh và trong mẫu sinh thiết gan. Bệnh thừa sắt mắc phải lại là một bệnh cơ hội và thường đi kèm với các bệnh như thiếu hồng cầu, các bệnh về gan và các bệnh liên quan đến hấp thụ sắt.

Nguyên nhân gây ngộ độc sắt là gì?

Quá liều: ngộ độc sắt cấp tính thường là kết quả của việc uống quá liều lượng sắt cho phép. Phần lớn các trường hợp xảy ra ở trẻ em dưới 5 tuổi vô tình nuốt phải viên bổ sung sắt hoặc đa sinh tố dành cho người trưởng thành.

Quá tải sắt: tình trạng nhiễm độc sắt mạn tính. Nguyên nhân quá tải sắt có thể do yếu tố di truyền, một người được truyền máu với số lượng lớn, có bệnh gan như viêm gan C mạn tính hoặc mắc phải chứng nghiện rượu.

Triệu chứng của ngộ độc sắt

Khi bị ngộ độc sắt cấp tính, các triệu chứng ngộ độc sắt do quá liều thường được chia thành 5 giai đoạn dưới đây.

Giai đoạn 1 (từ 0 – 6 giờ): các triệu chứng có thể bao gồm nôn, nôn mửa, tiêu chảy, đau bụng, khó chịu và buồn ngủ. Trong những trường hợp nghiêm trọng, hơi thở và nhịp tim trở nên nhanh, người bệnh có thể rơi vào trạng thái hôn mê, bất tỉnh, co giật và huyết áp thấp.

Giai đoạn 2 (6 – 48 giờ): các triệu chứng và tình trạng chung của người bệnh có thể được cải thiện.

Giai đoạn 3 (12 – 48 giờ): xuất hiện các triệu chứng sốt, chảy máu, huyết áp hạ xuống thấp, vàng da, suy gan, axít dư thừa trong máu và co giật.

Giai đoạn 4 (2 – 5 ngày): các triệu chứng có thể bao gồm suy gan, chảy máu, rối loạn đông máu, khó thở và thậm chí tử vong. Giảm lượng đường trong máu có thể xảy ra, người bệnh có thể bị nhầm lẫn, lơ mơ hoặc hôn mê.

Giai đoạn 5 (2 – 5 tuần): hình thành sẹo ở dạ dày hoặc ruột. Các sẹo này có thể gây tắc nghẽn, co thắt khiến người bệnh có cảm giác đau bụng và nôn mửa. Xơ gan có thể phát triển sau đó.

Có rất nhiều triệu chứng do ngộ độc sắt gây ra bao gồm chán ăn, thiểu niệu, tiêu chảy, người lạnh, nhiễm axít chuyển hóa và cuối cùng là chết. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, bệnh nhân còn bị sung huyết ống tiêu hóa, gan, thận, tin, não, lá lách, ức. Như một hậu quả của việc tích trữ quá nhiều sắt, bệnh nhân dễ có khả năng mắc xơ gan hoặc ung thư gan.

Tác hại khi thừa sắt

Khác với quá liều sắt, quá tải sắt thường diễn ra một cách âm thầm, không có triệu chứng điển hình nên gây khó khăn trong việc phát hiện, chẩn đoán và điều trị sớm. Trong một số trường hợp, quá tải sắt có thể gây đau khớp, mệt mỏi, thiếu năng lượng, đau bụng, giảm ham muốn tình dục…

Chẩn đoán ngộ độc sắt như thế nào?

Chẩn đoán nhiễm độc sắt thường dựa trên tiền sử bệnh, triệu chứng hiện tại, sự hiện diện của axít trong máu và lượng sắt trong cơ thể. Trong quá trình chẩn đoán, người bệnh cần chia sẻ với bác sĩ về tất cả các loại thuốc hiện tại và chất bổ sung mà họ đang dùng. Việc tiết lộ đầy đủ rất quan trọng vì một số chất bổ sung như vitamin C có thể làm tăng sự hấp thu sắt trong cơ thể.

Điều trị ngộ độc sắt

Giai đoạn đầu của điều trị nhiễm độc sắt cấp tính liên quan đến việc ổn định cơ thể, bao gồm bất kỳ vấn đề về hô hấp hoặc huyết áp.

Tùy thuộc vào mức độ ngộ độc, điều trị có thể bao gồm liệu pháp làm sạch, chẳng hạn như thủ thuật tưới rửa toàn bộ ruột và phương pháp điều trị chelation. Nguyên tắc hoạt động của những phương pháp này là loại bỏ chất sắt dư thừa càng nhanh càng tốt, từ đó làm giảm triệu chứng ngộ độc sắt trên cơ thể.

Những người có triệu chứng đáng kể hoặc lượng sắt cao trong máu có thể cần phải nằm viện. Một số người có thể cần hỗ trợ hô hấp, hoặc thậm chí là theo dõi tim.

Với tình trạng quá tải sắt, việc điều trị chủ yếu là loại bỏ lượng sắt dư thừa, được gọi là lấy máu tĩnh mạch (phlebotomy). Căn cứ vào mức độ quá tải sắt mà các bác sĩ sẽ thực hiện thủ thuật này với tần suất khác nhau.

 

Lời khuyên của thầy thuốc
Ngộ độc sắt có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí đe dọa đến mạng sống. Suy gan và suy tim là những nguyên nhân chính gây tử vong do ngộ độc sắt. Nếu ngộ độc sắt gây tổn thương gan nghiêm trọng, nó có thể dẫn đến bệnh đái tháo đường. Suy tim có thể dẫn đến sưng chân, khó thở, hoạt động thể chất bị hạn chế, mệt mỏi, nhịp tim nhanh và buồn nôn.
Ngộ độc sắt không chủ ý có thể được ngăn ngừa bằng cách đóng bình đựng thuốc đúng cách và bằng cách bảo quản chúng khỏi tầm nhìn và tầm với của trẻ em. Bất cứ ai dự định uống bất kỳ loại vitamin tổng hợp hoặc chất bổ sung, thực phẩm chức năng có chứa chất sắt trước tiên phải tham vấn với chuyên gia y tế. Điều này đặc biệt quan trọng nếu bạn dự định sử dụng nhiều hơn một sản phẩm bổ sung trong cùng một thời điểm. Sắt không phải là một chất có thể hấp thu bao nhiêu cũng được, đối với những bệnh nhân đã mắc các bệnh liên quan đến gan và tim, nên hạn chế sử dụng các loại thực phẩm chứa nhiều sắt, hay uống các loại vitamin bổ sung sắt.

 

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

]]>
Nhu cầu sắt hằng ngày của trẻ http://tapchisuckhoedoisong.com/nhu-cau-sat-hang-ngay-cua-tre-13285/ Tue, 31 Jul 2018 15:07:32 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/nhu-cau-sat-hang-ngay-cua-tre-13285/ [...]]]>

Nguyễn Thị Hoa (Lai Châu)

Sắt là một nguyên tố vi lượng rất cần thiết cho quá trình tạo máu trong cơ thể, nhất là đối với trẻ nhỏ đang trong giai đoạn phát triển. Thiếu sắt sẽ gây ra bệnh lý thiếu máu, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và chất lượng cuộc sống của trẻ. Thực tế cho thấy các bậc cha mẹ chưa có nhiều kiến thức về cách chăm sóc trẻ, dẫn đến việc lạm dụng các loại thuốc bổ, các thực phẩm chức năng.

Khi trẻ có các biểu hiện như mệt mỏi, chán ăn, da xanh xao, móng tay, móng chân dễ gãy là tình trạng thiếu máu nặng. Trẻ sinh non, nhẹ cân, người mẹ mang thai không được bổ sung viên sắt đầy đủ trong thời kỳ thai nghén cũng dễ bị thiếu máu. Những trường hợp này cha mẹ cần bổ sung cho trẻ chế độ ăn giàu sắt để trẻ hấp thụ qua thức ăn. Khi trẻ bị thiếu máu ở chế độ nặng thì mới sử dụng phương pháp bổ sung sắt nhưng phải có sự tư vấn, chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng. Về nhu cầu sắt hàng ngày, trẻ từ 1-3 tuổi khoảng 7mg, trẻ từ 4-8 tuổi cần khoảng 10mg. Chúng ta có thể lựa chọn các sản phẩm bổ sung với liều lượng phù hợp, chú ý là sắt đã được bổ sung trong khẩu phần ăn, tránh lạm dụng việc sử dụng các sản phẩm bổ sung sắt gây dư thừa trong cơ thể trẻ.

Nguồn sắt tốt có trong thức ăn động vật là các nội tạng: tim, gan, bầu dục. Nguồn sắt tốt có trong thức ăn thực vật là đậu đỗ và các loại rau có màu xanh sẫm. Sắt có trong thức ăn động vật hấp thu tốt hơn trong thức ăn thực vật nhưng trong rau quả lại có nhiều vitamin C giúp cơ thể hấp thu và sử dụng sắt có hiệu quả hơn. Chính vì vậy, chế độ dinh dưỡng ưu tiên nguồn thức ăn động vật, phối hợp với các đậu đỗ và rau quả nhằm đảm bảo đủ sắt cho cơ thể. Vì vậy, chị muốn bổ sung sắt cho bé cần đưa bé tới cơ sở y tế khám và được bác sĩ chỉ định.

BS. Hoàng Oanh

]]>
Dấu hiệu cảnh báo thiếu sắt ở trẻ em http://tapchisuckhoedoisong.com/dau-hieu-canh-bao-thieu-sat-o-tre-em-10841/ Wed, 25 Jul 2018 08:15:53 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/dau-hieu-canh-bao-thieu-sat-o-tre-em-10841/ [...]]]>

Thiếu sắt trong máu có thể dẫn đến nhiều biến chứng, chẳng hạn như thiếu máu không đảm bảo cung cấp đủ ôxy và chất dinh dưỡng cho các tế bào của cơ thể hoạt động bình thường. Nếu không được điều trị kịp thời, có thể dẫn đến suy giảm thể chất hoặc suy giảm nhận thức của trẻ.

Dấu hiệu thiếu sắt ở trẻ em là gì?

Trong nhiều trường hợp, thiếu chất sắt không có triệu chứng cho đến khi xuất hiện thiếu máu thiếu sắt đã phát triển. Có thể được nhận thấy với các triệu chứng sau: da tái; yếu đuối; cáu gắt.

Các trường hợp thiếu máu thiếu sắt trầm trọng có thể dẫn đến các triệu chứng sau: sưng bàn tay và bàn chân, tăng nhịp tim, khó thở.

Trẻ sơ sinh sẽ bị bệnh vàng da nếu trẻ bị thiếu máu tan huyết. Thiếu sắt ở trẻ em cũng gây ra một tình trạng rối loạn hành vi được gọi là “pica”, trong đó trẻ ăn các chất kỳ lạ, chẳng hạn như chất bẩn.

Con bạn có nguy cơ bị thiếu sắt không?

Nếu con của bạn có các yếu tố nguy cơ dưới đây, trẻ có thể có khả năng bị thiếu sắt cao hơn.

Trẻ đẻ non và có cân nặng thấp: Trẻ sinh ra có đủ các nguồn sắt dự trữ trong thời gian dài, có thể kéo dài đến 6 tháng. Trẻ sơ sinh đẻ non hoặc có trọng lượng sinh thấp hơn chuẩn có thể đã cạn kiệt nguồn dự trữ sắt chỉ có thể kéo dài trong 2 tháng, khiến chúng dễ bị thiếu chất sắt hơn.

 Dấu hiệu cảnh báo thiếu sắt ở trẻ emTrẻ bị thiếu máu thiếu sắt thường da xanh, yếu đuối, hay cáu gắt.

Trẻ chỉ uống sữa bò: Sữa bò có ít chất sắt và cũng có thể gây cản trở khả năng hấp thụ sắt từ các nguồn thực phẩm khác. Sữa bò cũng có thể gây kích ứng dạ dày của trẻ. Do đó, bạn nên tránh cho trẻ dùng sữa bò trong năm đầu tiên và lựa chọn tối ưu là cho bú mẹ tự nhiên.

Chế độ ăn ít chất sắt: Chất sắt trong cơ thể chúng ta, cũng như hầu hết các chất dinh dưỡng và vitamin, được hấp thụ qua thực phẩm chúng ta ăn. Trung bình, khoảng 1mg được hấp thụ cho mỗi 10-20mg sắt tiêu thụ. Thiếu sắt ở trẻ em có thể sẽ phát triển nếu một chế độ ăn kiêng không cân bằng với thiếu tiêu thụ thực phẩm chứa sắt.

Giai đoạn tăng trưởng cần đủ sắt: Khi con bạn lớn lên, chúng sẽ cần nhiều chất sắt hơn trong chế độ ăn uống đi kèm với sự tăng trưởng tự nhiên và sản xuất tế bào hồng cầu. Nếu lượng sắt không tăng trong thời kỳ tăng trưởng, con của bạn có thể bị thiếu chất sắt.

Các bất thường đường tiêu hóa: Nếu bất thường xảy ra ở đường tiêu hóa, nơi hấp thu sắt, chẳng hạn như sau khi phẫu thuật dạ dày ruột, con bạn có thể gặp khó khăn khi hấp thụ sắt, dẫn đến thiếu máu.

Mất máu: Con bạn có thể bị mất máu theo nhiều cách, chẳng hạn như thương tích hoặc chảy máu đường tiêu hóa. Mất quá nhiều máu có thể dẫn đến thiếu máu.

Thiếu sắt ở trẻ em được điều trị như thế nào?

Trong hầu hết các trường hợp, thiếu sắt ở trẻ em có thể được điều trị với lượng bổ sung sắt hàng ngày. Bạn cũng có thể thay đổi chế độ ăn uống của trẻ và cung cấp cho trẻ multivitamin có chứa sắt. Sẽ mất đến 6 tháng để ổn định tình trạng thiếu sắt. Cần trao đổi với bác sĩ trước khi bổ sung sắt cho trẻ. Dưới đây là một số lời khuyên liên quan đến điều trị thiếu sắt ở trẻ em:

Các chất bổ sung sắt nên được dùng với dạ dày trống rỗng để hấp thụ sắt hiệu quả hơn.

Tránh dùng sắt kèm với sữa, vì điều này sẽ làm giảm khả năng hấp thu sắt của cơ thể.

Các thực phẩm giàu vitamin C như cam,  quýt… có thể giúp hấp thu sắt.

Nếu việc điều trị không có hiệu quả, cần cho trẻ đi khám bác sĩ, bổ sung xét nghiệm để tìm nguyên nhân và can thiệp kịp thời như truyền máu…

Làm thế nào để ngăn ngừa thiếu sắt ở trẻ em?

Cho con bú sữa mẹ hoặc sử dụng công thức bổ sung sắt: Chất sắt tốt nhất và dễ hấp thu nhất cho trẻ dưới 1 tuổi là sữa mẹ. Đó là lý do tại sao bạn nên tiếp tục cho con bú ít nhất một năm. Nếu bạn không thể làm như vậy, hãy lựa chọn cho công thức bổ sung sắt theo hướng dẫn.

Chế độ ăn uống cân bằng: Khi con bạn có thể tiêu thụ thức ăn rắn, hãy chọn thực phẩm có nhiều chất sắt, chẳng hạn như các loại ngũ cốc cho em bé. Khi trẻ lớn lên, các nguồn cung cấp chất sắt tốt bao gồm rau xanh đậm, cá, gà, thịt đỏ và đậu. Trong độ tuổi từ 1-5 tuổi, lượng sữa bò tiêu thụ nên hạn chế khoảng 710ml mỗi ngày.

Tăng cường vitamin C: Vitamin C giúp hấp thụ sắt. Vitamin C có thể tìm thấy trong thực phẩm như cam, cà chua, dưa, dâu tây, bông cải xanh, khoai tây và kiwi.

Dùng chất bổ sung sắt: Thiếu sắt ở trẻ em thường được điều trị bằng chất bổ sung sắt. Nếu con của bạn có nguy cơ bị thiếu máu thiếu sắt, chẳng hạn như sinh non, thì nên bổ sung chất sắt.

Nếu bạn nghi ngờ con của bạn có thể bị thiếu sắt, bạn nên cho trẻ đi khám bác sĩ nhi khoa.

BS. Hoài Châu

]]>
Vai trò của Sắt và Canxi trong thời kỳ mang thai http://tapchisuckhoedoisong.com/vai-tro-cua-sat-va-canxi-trong-thoi-ky-mang-thai-5216/ Thu, 19 Jul 2018 13:45:01 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/vai-tro-cua-sat-va-canxi-trong-thoi-ky-mang-thai-5216/ [...]]]>

Sắt:Trong thai kỳ, thể tích máu của người mẹ tăng 50%. Sắt cần thiết để tạo hemoglobin mà hemoglobin là một thành phần quan trọng của máu. Hemoglobin mang oxy đến khắp cơ thể người mẹ và thai nhi. Sắt có mặt ở hầu hết trong các loại thực phẩm đặc biệt là thực phẩm động vật. Nhưng không phải lúc nào sắt cũng được hấp thu tốt do đó người mẹ thường không đủ sắt trong thời kỳ mang thai. Do vậy,chương trình chăm sóc thai sản đãbæsung thuốc chứa sắt và axitfolic cũng như hướng dẫn cho thai phụ một chế độ ăn giàu chất sắt, cân đối và đủ dinh dưỡng.
Để tránh tác dụng phụ của viên sắt nên uống sau bữa ăn 1-2h và giúp sắt hấp thu được tốt nên tăng sử dụng
những thực phẩm chứa nhiều Vitamin C. Không uống sắt cùng với chè, cà phê vì chất tanin trong chè, cà phê sẽgiảm hấp thu sắt.

Sắt còn giúp bảo vệ cơ thể không bị nhiễm khuẩn vì sắt cũng là thành phần của một enzym trong hệ miễn dịch, sắt giúp biến đổi Betacaroten thành Vitamin A, giúp tạo ra Colagen (chất này gắn kết các mô cơ thể lại với nhau).

Phụ nữ lần đầu tiên phát hiện có thai nên uống ngay viên sắt, uống kéo dài tới sau khi sinh 1 tháng. Liều: 60mg sắt nguyên tố kèm theo acid folic 400mcg/ngày. Ngoài ra cũng nên sử dụng các thực phẩm có tăng cường sắt, acid folic cho phụ nữ mang thai.

Canxi:Một thai phụ cần 1000-1200mg canxi mỗi ngày. Việc cung cấp đủ nhu cầu canxi trong thai kỳ sẽ giúp tạo thành và phát triển bộ xương thai nhi mà vẫnđảmbảo toàn vẹn bộ xương bà mẹ.

Vì xương là mô sống nên hàng ngày canxi đều lắng đọng và thoát khỏi bộ xương nên rất cần canxi. Việc tích lũy canxi đều đặn là rất cần thiết, nó vừa thay thế cho phần canxi mất đi vừa tạo nguồn dự trữ canxi khi các thực phẩm cung cấp không đủ. Trong trường hợp canxi thiếu do cơ thể không hấp thu đủ canxi ( cóthÓdo thiếu Vitamin D ) hoặc do lượng đưa vào ít thì lượng canxi bị rút ra từ xương của cơ thể người mẹ sẽ nhiều hơn, dần dần làm tiêu xương, xốp xương và dễ gẫy. Canxi còn có vai trò giúp cho sự co cơ,t¹onhịp đập của tim, sự đông máu và giúp hệ thần kinh gửi đi các thông tin.

Tuy nhiên, một số thực phẩm có chứa oxalat và các loại hạt ngũ cốc chứa phytat, cả hai loại này gắn kết với canxi và sắt làm hạn chế một phần sự hấp thu của hai loại chất khoáng này. Vì thế, cũng như sắt thì nên uống canxi xa bữa ăn để tránh hiện tượng này.

Canxi có nhiều trong sữa, lá rau xanh đậm, tôm đồng, cá nhỏ ăn cả xương.

BS. Phạm Thị Thục

]]>
Bổ sung sắt cũng phải đúng cách http://tapchisuckhoedoisong.com/bo-sung-sat-cung-phai-dung-cach-5166/ Thu, 19 Jul 2018 13:36:47 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/bo-sung-sat-cung-phai-dung-cach-5166/ [...]]]>

Những lý do thiếu sắt thường gặp

– Mất máu cấp tính (do bị thương) hay kéo dài (do rong kinh, bị giun móc, trĩ).

– Rối loạn tiêu hoá dẫn đến hấp thu sắt kém.

– Có thai, nhu cầu sắt tăng cao nhưng ăn không đủ lượng thức ăn chứa sắt cần thiết.

– Trẻ em trong năm đầu cần nhiều sắt. Cho ăn không đúng cách sẽ bị thiếu sắt.

Nhu cầu sắt hàng ngày: nam 1mg, nữ 1,6 – 2mg. Trẻ mới sinh đã có một lượng sắt dự trữ khoảng 0,25g. Ở trẻ sinh non, sinh già tháng, suy dinh dưỡng bào thai, lượng sắt dự trữ còn ít hơn, chỉ khoảng 0,15g. Từ khi mang thai cho đến khi nuôi con bú đến 6 tháng tuổi, bà mẹ phải mất đi khoảng 955mg sắt (bao gồm: cho thai 450mg, ở nhau thai 150mg và mất máu khi sinh 175mg và tiết vào sữa cho con 180mg). Trẻ em từ 6 tháng đến 2 tuổi, thanh thiếu niên từ 14 -18 tuổi, người mang thai cần một lượng sắt nhiều hơn. Thiếu sắt thường xảy ra trẻ em và người mang thai. Theo các số liệu nghiên cứu có 40 – 50% phụ nữ mang thai bị thiếu sắt (thay đổi theo vùng).

Thiếu sắt sẽ dẫn tới thiếu máu nhược sắc. Người lớn thì kém minh mẫn, dễ mệt, hay quên, hay chóng mặt, ù tai, năng suất lao động giảm, trẻ em thì hay quấy khóc, vật vã, chán ăn ngủ ít, giảm trí nhớ. Riêng người có thai thiếu sắt sẽ ảnh hưởng không tốt đến thai nhi. Ngoài ra, thiếu máu do thiếu sắt còn làm giảm trương lực cơ, bắp thịt nhão, chậm biết ngồi, biết đi. Thiếu máu còn làm tim đập nhanh hơn (để đáp ứng nhu cầu cung cấp ôxy cho các cơ quan tổ chức), nếu để lâu ngày sẽ dẫn đến suy tim.

Bổ sung sắt phải đúng cách

Bổ sung bằng thực phẩm – ăn gì để bổ sung sắt?

Có nhiều loại thức ăn bổ sung sắt: Lượng sắt (tính bằng mg) trong 100 gam thực phẩm lần lượt là: tiết bò (52), men bia khô (16), gan lợn (10), thịt bò (2,7), trứng gà (2,2), cua biển (3,8) mực tươi (0,6) cá chép, cá trê, cá đối (0,8) mộc nhĩ (65), nấm hương khô (35), đậu nành (11), vừng (10), đậu xanh (4,8), cần tây, cần ta (3), rau ngót (2,7) củ cải (2,9), rau dền trắng (6,1) rau dền đỏ (5,4), các loại rau thơm (3,8).

Theo đó, thức ăn thực vật phần lớn chứa sắt ít hơn thức ăn động vật, thức ăn động vật sống dưới nước chứa ít sắt hơn loại động vật sống trên cạn. Cơ thể hấp thu được 10 – 15% thức ăn động vật nhưng chỉ hấp thu được 5% trong thức ăn thực vật (tính trung bình chỉ 10%). Song trong thức ăn động vật thì sắt dạng hemoglobin thường chiếm chủ yếu (như trong tiết) lại rất khó hấp thu. Người ăn chay ròng sẽ thiếu sắt, nhưng người chỉ ăn nước thịt bò ép cũng chỉ đưa vào cơ thể chất protein (giúp cho sự tổng hợp globin) chứ không đưa chất sắt vào cho cơ thể được. Ngoài ăn thức ăn chứa chất sắt, cần ăn các thức ăn có chất porphyrin (để tạo ra nhân pyrol) và chất protein (để có globin và vitamin) mới tạo ra được huyết cầu tố.

Người chỉ ăn thức ăn thực vật tính ra có thể đủ lượng sắt nhưng vẫn bị thiếu máu do không tạo ra được huyết cầu tố.

Các thức ăn quá giàu phospho sẽ gây kết tủa sắt làm giảm sự hấp thu sắt. Vitamin C (và một số vitamin nhóm B như B6) giúp sự hấp thu sắt và tổng hợp huyết cầu tố.

Ngoài thức ăn thông thường còn có thực phẩm chức năng bổ sung chất sắt.

Như vậy, muốn đủ sắt thì phải ăn một lượng sắt gấp 10 lần nhu cầu khuyến cáo (vì cơ thể chỉ hấp thu trung bình 10%), ăn dạng sắt dễ hoà tan trong cả động vật và thực vật, kèm theo phải ăn đủ chất đạm, không ăn quá nhiều thức ăn giàu phospho và nên ăn thức ăn có vitamin C.

Bổ sung sắt bằng thuốc – các loại thuốc bổ sung sắt:

Khi thiếu sắt cấp tính hay kéo dài thì nhất thiết phải bổ sung bằng thuốc. Sau khi phục hồi đủ sắt mới chuyển sang duy trì bằng chế độ ăn giàu chất sắt. Ngoài ra cần phải chữa các bệnh gây thiếu sắt (như tẩy giun móc).

Có loại thuốc chứa sắt thuần tuý (viên sắt fumarat, sắt gluconat, sắt succinat, sắt oxalat, sắt tatrat, sắt II sulfat). Có loại phối hợp chất sắt với acid folic (viên probofex.) Người có thai trong suốt thai kỳ cần uống viên sắt kết hợp với acid folic. Khi dùng viên sắt thuần tuý sẽ bị táo bón nên trong một số viên sắt người ta cho thêm dược liệu có tính nhuận là đại hoàng, nhưng nếu dùng nhiều đại hoàng sẽ bị tiêu chảy, ngừng dùng sẽ hết. Để tránh hiện tượng này không nên dùng quá liều lượng. Cũng như khi ăn muốn dùng viên sắt có hiệu quả thì không dùng viên sắt đã bị quá hạn kém phẩm chất (vì đã chuyển sang dạng sắt khó hoà tan), kèm theo phải ăn đủ chất đạm.

Cần tránh các trường hợp hay nhầm lẫn: Bệnh thiếu máu ác tính do thiếu B12, thì chỉ cần dùng vitamin B12. Còn những sản phẩm vitamin B12 kết hợp với vitamin B1, B6 (như terneurin, becofort) trước đây dùng chữa đau dây thần kinh, một số người thiếu máu do thiếu sắt đúng ra phải dùng viên sắt nhưng nhầm lẫn chỉ dùng sản phẩm kết hợp này để chữa là không đúng, vừa lãng phí vừa không đưa lại hiệu quả.

Có bệnh do thiếu hay thừa sắt nhưng lệ thuộc vào hormon hepcidine. Chứng nhiễm sắc tố sắt di truyền (hemochrommatose): sắt hấp thu vượt mức mỗi ngày 2 – 3mg ngay từ khi sinh, tích luỹ dần, nhưng sau tuổi biết đi mới có triệu chứng (da thâm đen, gan to, lách to chắc cứng, kèm theo cổ trướng, đái tháo đường). Bệnh hồng cầu hình lưỡi liềm (thalassemie): gây quá tải sắt trong máu dẫn đến ngộ độc sắt. Bệnh thiếu máu sắt mạn tính: sắt không đưa được vào trong tuỷ xương để tạo hồng cầu. Với các bệnh này người ta dùng hepcidine (khi thiếu) và chất ức chế hepcoidine (khi thừa) để chữa hoặc theo các cách chữa cổ điển khác. Các trường hợp này cần khám chữa theo đơn của thầy thuốc chuyên khoa.

 

 

Ds. Vũ Hải Trung

]]>