sai lầm – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com Thông tin sức khỏe cho cộng đồng Tue, 13 Nov 2018 15:25:32 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.4 http://tapchisuckhoedoisong.com/wp-content/uploads/2018/07/cropped-Icon-browser-32x32.png sai lầm – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com 32 32 8 quan niệm sai lầm về bệnh ung thư cần từ bỏ ngay http://tapchisuckhoedoisong.com/8-quan-niem-sai-lam-ve-benh-ung-thu-can-tu-bo-ngay-16879/ Tue, 13 Nov 2018 15:25:32 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/8-quan-niem-sai-lam-ve-benh-ung-thu-can-tu-bo-ngay-16879/ [...]]]>

Theo TS. Nguyễn Diệu Linh – Bệnh viện K Trung ương, tới năm 2020, dự tính có 10 triệu người trên thế giới tử vong vì bệnh ung thư chủ yếu tập trung ở các nước đang phát triển. Điều đáng ngại là còn tồn tại nhiều quan niệm sai lầm về căn bệnh này dẫn tới những hậu quả đáng tiếc.

Dưới đây là những quan niệm sai lầm của người dân về bệnh ung thư mà TS. Nguyễn Diệu Linh khuyến cáo người bệnh không nên mắc phải.

Các giai đoạn biến đổi của tế bào ung thư.

1. Ung thư là án tử hình

Ung thư có 200 bệnh khác nhau do những nguyên nhân gây bệnh khác nhau, vì vậy tiến trình phát triển bệnh cũng khác nhau. Nguyên nhân sinh ra ung thư là sự nhân chia của các tế bào một cách mất thăng bằng. Tuy nhiên, ung thư không phải là chết. Nếu tuân thủ việc khám sức khỏe và phác đồ điều trị của bác sĩ đưa ra, bạn vẫn có thể sống khỏe tới già bởi nhiều loại ung thư có thể chữa khỏi tới 90% như: ung thư vú, ung thư cổ tử cung, ung thư tuyến giáp…

2. Ăn đường, trứng vịt lộn làm cho tế bào ung thư phát triển nhanh

Đó là những lầm tưởng ở nhiều người bởi một số xét nghiệm tiến bộ sử dụng các đầu vị phóng xạ gắn với phân tử đường và dùng một máy quét ở đầu dò bên ngoài cơ thể phát hiện sớm ung thư di căn bởi tính chất háo đường của các tế bào ung thư.

Nhiều thử nghiệm lâm sàng được thử nghiệm tại Mỹ đã chỉ ra, việc sử dụng đường tinh luyện cũng như các thực phẩm chứa đường (bánh ngọt, sữa, đường tinh luyện) không làm cho tế bào ung thư phát triển nhanh chóng hơn.

Tuy nhiên, những bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có mối liên quan chặt chẽ tới việc gia tăng một số bệnh ung thư như: ung thư vú ở phụ nữ bởi sự thừa đường trong cơ thể và quá trình chuyển biến được khi insulin không chuyển hóa được sẽ chuyển thành chất nội tiết gia tăng. Đó cũng chính là lý do vì sao những người thừa cân, béo phì có tỷ lệ mắc ung thư vú cao hơn so với những người có chế độ ăn nhiều chất xơ và cân nặng bình thường.

Chưa có một tài liệu khoa học nào chứng minh rằng, việc ăn trứng vịt lộn hay các thực phẩm có nguồn gốc tế bào mầm làm tăng nguy cơ gây ung thư. Trong trứng vịt lộn có nhiều hàm lượng dinh dưỡng tốt cho sức khỏe.

Chưa có một tài liệu khoa học nào chứng minh rằng, việc ăn trứng vịt lộn hay các thực phẩm có nguồn gốc tế bào mầm làm tăng nguy cơ gây ung thư.

3. Bệnh ung thư có tính lây lan

Ung thư là bệnh không lây nhiễm. Bệnh không lây nhiễm qua đường máu, quan hệ tình dục, từ mẹ sang con, tiếp xúc… Vì vậy, không có lý do gì để xa lánh hay phải có biện pháp phòng tránh đối với người bệnh ung thư.

4. Đi dự đám tang làm cho bệnh di căn nhanh hoặc tái phát trở lại

Phải khẳng định rằng, đi dự đám tang sẽ không bao giờ dẫn tới việc tế bào ung thư di căn hay bệnh quay trở lại. Vì một trong những đặc tính của bệnh ung thư là tái phát và di căn. Khi đã chữa ung thư, phải luôn tuân thủ việc tái khám. Nếu giai đoạn sớm, nguy cơ tái phát ít nhưng không ai dám chắc sẽ diệt được tế bào ung thư cuối cùng.

Cảm giác mệt mỏi mà những người bệnh nhận thấy sau khi dự đám tang là do ảnh hưởng về mặt tâm lý. Đây cũng là cảm giác xảy ra không chỉ với người bệnh ung thư mà với bất cứ người nào.

5. Sừng tê giác chữa được ung thư

Sừng tê giác thực chất cũng chỉ như móng tay, móng chân và hoàn toàn không thể chữa được ung thư. Sừng tê giác trong Đông y có thể giúp tăng thể lực. Việc tăng thể lực này, một viên C sủi cũng làm được.

6. Phẫu thuật làm cho tế bào ung thư lây lan nhanh hơn

Nguyên tắc của phẫu thuật ung thư là cắt bỏ và lấy rộng tất cả những vùng xung quanh khối u, hạn chế tế bào khối u còn tồn tại. Nên việc phẫu thuật sẽ không cấy và reo rắc thêm tế bào ung thư như lời truyền tụng. Vì vậy, phẫu thuật cắt bỏ khối u khi có chỉ định của bác sĩ là điều cần thiết để tốt hơn cho bệnh nhân.

7. Nhịn ăn để diệt trừ hoàn toàn tế bào ung thư

Khi nhịn ăn, tế bào ung thư chết thì tất nhiên cũng kéo theo các tế bào khác trong cơ thể chết theo. Như vậy, đồng nghĩa với việc cơ thể chúng ta cũng sẽ tử vong.

Ngược lại, người bệnh khi đang điều trị ung thư sẽ cần phải ăn nhiều hơn để có đủ năng lượng, đáp ứng quá trình điều trị của nhiều loại thuốc nặng.

Tế bào ung thư

8. Thay thế liệu pháp chữa trị

Không ít người khi biết mình bị ung thư đã không đến ngay các cơ sở y tế để điều trị, chữa bệnh tuân theo phác đồ của bác sĩ mà nghe theo các lời mách bảo truyền miệng dùng, uống các loại thuốc lá, thuốc Đông y không rõ nguồn gốc. Đây là hành động vô tình làm người bệnh tự đánh mất đi thời gian vàng điều trị bệnh. Sau khi điều trị bằng thuốc lá không có hiệu quả, bệnh nặng lên, người bệnh mới quay trở lại điều trị theo lộ trình của bác sĩ thì đã muộn.

Vì vậy, phải luôn tuân thủ theo liệu trình điều trị của bác sĩ. Chỉ sử dụng phương pháp thay thế điều trị khi đã kết thúc liệu trình. Tuyệt đối không nên bỏ dở liệu trình mà bác sĩ đang điều trị cho bạn để nghe theo những lời đồn thổi, tự ý dùng các biện pháp khác điều trị ung thư như dùng các loại lá, loại thuốc được mách bảo.

Thanh Loan

]]>
Gai cột sống và những quan niệm sai lầm trong điều trị http://tapchisuckhoedoisong.com/gai-cot-song-va-nhung-quan-niem-sai-lam-trong-dieu-tri-16693/ Fri, 02 Nov 2018 15:20:08 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/gai-cot-song-va-nhung-quan-niem-sai-lam-trong-dieu-tri-16693/ [...]]]>

Nhiều người thấy lo sợ và muốn tìm cách cắt bỏ gai đi. Tuy nhiên đó không phải là một bệnh mà chỉ là triệu chứng của các bệnh viêm, thoái hóa hoặc sau chấn thương cột sống.

Gai cột sống thường gặp ở người tuổi từ 40 trở lên. Nam bị nhiều hơn nữ. Ở nam giới phần lớn là do lao động nặng. Tuy nhiên nữ giới ở tuổi mãn kinh cũng hay bị gai cột sống. Gai thường mọc ở mặt trước và bên của cột sống, hiếm khi mọc ở phía sau nên ít chèn ép vào tủy và rễ thần kinh. Gai thường xuất hiện ở đốt sống cổ và thắt lưng, vì hai bộ phận này hoạt động nhiều nhất, nên dẫn đến tình trạng khớp thoái hóa nhanh.

Gai cột sống có thể dẫn đến tàn phế

Nhiều người có gai xương chỉ tình cờ phát hiện ra khi chụp Xquang do đi khám một bệnh khác. Tuy nhiên, 40% những trường hợp gai có biểu hiện lâm sàng, khi gai cọ xát với xương khác hoặc các phần mềm ở xung quanh như dây chằng, rễ dây thần kinh. Với người bị gai đốt sống cổ triệu chứng đầu tiên là đau cổ, đau vai gáy, nhức đầu, đau lan xuống tay thậm chí đến các ngón tay. Với người bị gai đốt sống thắt lưng thì đau thắt lưng, đau hông, đau có thể xuống chân theo kiểu đau thần kinh tọa. Đau làm hạn chế vận động cổ, vai, thắt lưng. Dần dần, cơ bắp yếu đi, đặc biệt là ở tay và chân. Bệnh nhân có dáng đi vẹo vọ hoặc lưng còng xuống. Một số ít các trường hợp, chèn ép thần kinh nặng gây bí tiểu, táo bón, đại tiểu tiện không tự chủ, bệnh nhân trở nên tàn phế, thậm chí có thể tử vong. Đó là biến chứng nặng cần phải được phát hiện và điều trị nhanh chóng.

 

Thoái hóa đĩa đệm cột sống là một nguyên nhân hình thành gai xương cột sống

Thoái hóa đĩa đệm cột sống là một nguyên nhân hình thành gai xương cột sống

 

Điều trị bằng cách nào?

Nếu có gai nhưng không gây đau thì không điều trị. Xu hướng điều trị của bệnh gai cột sống là điều trị bảo tồn, và sẽ cắt bỏ gai khi thật cần thiết. Cần phát hiện và điều trị là nguyên nhân gây ra gai cột sống. Đầu tiên, người bệnh phải nghỉ ngơi, tránh làm việc nặng, giảm áp lực lên các vùng bị đau. Có thể dùng nẹp cổ, đai lưng… để giảm bớt gánh nặng lên các đốt sống bị bệnh. Bác sĩ sẽ cho dùng thuốc để khống chế đợt đau cấp của bệnh. Thường dùng các thuốc giảm đau kháng viêm không steroid, nhóm giãn cơ, tiêm cạnh cột sống bằng thuốc chống viêm steroid. Ngoài ra cần điều trị hỗ trợ giúp giảm đau và tăng vận động như mát-xa, châm cứu, vật lý trị liệu. Hồng ngoại, điện xung, điện dẫn thuốc, siêu âm dẫn thuốc thường có kết quả tốt. Sau khi bệnh nhân qua cơn đau cấp cần tập phục hồi chức năng vận động. Điều trị phẫu thuật là biện pháp cuối cùng khi người bệnh bị đau nghiêm trọng, mạn tính, có chèn ép vào tủy, chèn ép các rễ thần kinh ở cột sống gây nên rối loạn đại tiểu tiện, mất cảm giác, liệt.

Tránh những quan niệm sai lầm về điều trị gai cột sống

Khi được bác sĩ chẩn đoán gai cột sống, một số bệnh nhân thường nghĩ ngay đến việc mổ để cắt đi “cái gai” đáng ghét này. Nhưng thực tế không hề có chỉ định và không thể mổ cắt gai cột sống. Xu hướng điều trị gai cột sống là bảo tồn. Không phải cứ lấy gai đi là bệnh sẽ hết vĩnh viễn vì gai xương có thể mọc lại ở cùng vị trí cũ, vì quá trình hình thành gai xương là một đáp ứng tự nhiên của cơ thể đối với phản ứng viêm. Khi mắc gai cột sống nhiều người có suy nghĩ không nên ăn thực phẩm giàu canxi để hạn chế sự phát triển thêm gai. Đây là quan điểm sai lầm, vì  ăn đủ lượng canxi trong thực phẩm không ảnh hưởng đến bệnh, không làm gai mọc nhiều hơn.  Hoặc một số người cho rằng nên ăn thêm muối để giúp cơ thể tái hấp thu một phần canxi vào máu. Trên thực tế lượng canxi trong máu được cơ thể kiểm soát rất chặt chẽ, không để tăng lên quá mức hoặc giảm quá mức. Bổ sung muối ăn không có tác dụng điều trị gai xương mà thậm chí có thể ảnh hưởng không tốt đến cơ thể, góp phần gây tăng huyết áp, phù, làm thận phải làm việc quá sức để thải lượng muối thừa ra khỏi cơ thể.

 

Bơi lội rất tốt đối với người bị thoái hóa đĩa đệm cột sống

Bơi lội rất tốt đối với người bị thoái hóa đĩa đệm cột sống

 

Phòng ngừa gai cột sống thế nào?

Trước tiên, bệnh nhân cần có chế độ dinh dưỡng đầy đủ canxi, vitamin D, C, K, E, muối khoáng đồng, kẽm mang gan, magie. Tăng cường ăn rau quả, hạn chế chất béo nhất là mỡ động vật. Không hút thuốc. Duy trì trọng lượng cơ thể vừa phải, tránh thừa cân béo phì. Tập thể dục thường xuyên, đặc biệt là các động tác cử động vùng cột sống cổ và vùng cột sống thắt lưng, vận động các phần cột sống về tất cả các hướng. Buổi sáng tiến hành các bài tập thở khoảng 10-15 phút. Tránh hoặc hạn chế các tư thế lao động nguy hiểm, không mang vác nặng. Lao động hợp lý xen kẽ với nghỉ ngơi, dùng ghế ngồi có tựa lưng.

PGS.TS. Nguyễn Vĩnh Ngọc

]]>
Tuổi teen và các quan niệm sai lầm về tình dục http://tapchisuckhoedoisong.com/tuoi-teen-va-cac-quan-niem-sai-lam-ve-tinh-duc-16433/ Wed, 17 Oct 2018 06:50:03 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/tuoi-teen-va-cac-quan-niem-sai-lam-ve-tinh-duc-16433/ [...]]]>

Nhận thức về tình dục, về vấn đề mang thai ở tuổi mới lớn luôn là điều không dễ. Không ngạc nhiên khi ở đâu đó chúng ta vẫn thấy tuổi “teen” quan niệm về tình dục và mang thai rất ngây ngô như: “không thể mang thai nếu quan hệ tình dục ở tư thế đứng”, “lần đầu quan hệ sẽ không thể có thai” hay “chỉ cần nhảy choi choi sau quan hệ thì không có thai được”…

Tất cả những hiểu biết kể trên đều không đúng. Các bạn trẻ cần nhớ, cho dù các bạn là trai hay gái, cũng đều cần hiểu biết đúng đắn về giới tính, tình dục và chuyện mang thai. Chỉ có như thế, các bạn mới không để xảy ra mang thai ngoài ý muốn cũng như ngăn ngừa lây truyền các bệnh qua đường tình dục.

Tuổi mới lớn cần trước tiên hiểu biết một cách đầy đủ về cơ quan và chức năng sinh sản ở người. Cần nhớ rằng, tinh trùng là một tổ chức vô cùng linh hoạt. Nơi được tạo ra của tinh trùng là người đàn ông và nơi đi đến của tinh trùng là người phụ nữ. Tinh trùng như có bổn phận của chính nó là được sinh ra để đi tìm trứng của người phụ nữ. Chúng có xu hướng làm việc này bằng mọi cách có thể. Tinh trùng thậm chí có thể sống trong tử cung một số ngày.

 

Tuổi teen và các quan niệm sai lầm về tình dục 1

Tuổi teen cần được trang bị kiến thức đúng đắn về sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục.

Những quan niệm sai lầm thường gặp về thụ thai

Nhiều bạn trẻ mới lớn tin rằng “nếu không xuất tinh bên trong âm đạo thì không thể có thai” hoặc “nếu chỉ cho vào một lúc thôi thì cũng không lo có thai”?

Câu trả lời là sai. Chúng ta cần biết có một giai đoạn gọi là tiền xuất tinh (pre-ejaculation), lúc đó có một chút dịch thấm ra ngoài dương vật trước khi thực sự xuất tinh. Một chút dịch này cũng  hoàn toàn có thể chứa tinh trùng và những tinh trùng này sẽ làm “mọi cách” để tìm gặp được trứng. Chỉ cần một chút tinh dịch xung quanh dương vật và có tiếp xúc với bất cứ vùng nào của âm đạo cũng đều có thể dẫn đến sự thụ thai.

Một số cặp tình nhân chọn cách tránh thai bằng cách “giao hợp chọn ngày”, chỉ quan hệ vào ngày an toàn theo vòng kinh của người phụ nữ. Đây cũng là một cách nhưng nên nhớ vẫn có đến tận 13% sự cố ngoài ý muốn của biện pháp này. Và cũng nên nhớ biện pháp này hoàn toàn không có tính bảo vệ đối với các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Dưới đây là một số quan niệm sai lầm về giới tính, tình dục và thai nghén khác:

Quan hệ tình dục tư thế đứng là một biện pháp tránh thai.

Sự thực là: Sai. Vì quan hệ tình dục qua đường âm đạo ở bất cứ tư thế nào đều có thể có thai.

Nếu bạn gái chỉ cần nhảy choi choi sau khi quan hệ, cô ấy sẽ không thể có thai.

Sự thực là: Sai. Bạn có thể nhảy lên nhảy xuống bất cứ lúc nào bạn muốn, nhưng một khi tinh trùng đã gặp trứng thì đấy là cơ hội để bạn có thai.

Nếu bạn gái không đạt được cực khoái, cô ấy sẽ không có thai.

Sự thực là: Sai. Cực khoái ở phụ nữ không nói lên được trứng có được thụ thai hay không.

Quan hệ tình dục dưới nước là một cách tránh thai.

Sự thực: Vẫn là sai! Bất cứ lúc nào nếu tinh trùng tiếp xúc với âm đạo thì người phụ nữ cũng có khả năng có thai. Nếu nước có nhiệt độ lý tưởng là điều kiện để tinh trùng có thể sống bên ngoài cơ thể nhiều phút. Thực tế đã có rất nhiều em bé đã được sinh ra từ những cuộc giao ban của bố mẹ ở bể bơi, hồ hay biển.

Bạn gái không thể có thai nếu quan hệ tình dục trong chu kỳ kinh nguyệt.

Sự thực là: Không đúng. Nên nhớ là tinh trùng có thể sống đến hàng tuần bên trong cơ thể người phụ nữ.

Thụt rửa âm đạo sau quan hệ sẽ ngăn ngừa được việc thụ thai.

Sự thực là: Không. Tinh trùng được tạo ra là để tìm cách thụ thai cho trứng, cho nên dù có thụt rửa sau quan hệ cũng không thể ngăn được việc thụ thai.

BS. Hoàng Thị Dinh

]]>
7 quan niệm sai lầm thường gặp về bệnh cơ xương khớp http://tapchisuckhoedoisong.com/7-quan-niem-sai-lam-thuong-gap-ve-benh-co-xuong-khop-16080/ Fri, 21 Sep 2018 15:18:10 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/7-quan-niem-sai-lam-thuong-gap-ve-benh-co-xuong-khop-16080/ [...]]]>

Tuy nhiên, các bệnh lý cơ xương khớp vẫn chưa được quan tâm đúng mức và có nhiều quan niệm rất sai lầm.

Các bệnh cơ xương khớp là một nhóm bệnh thường gặp nhất trong mọi nhóm bệnh, ngày càng có xu hướng gia tăng cùng với sự gia tăng tuổi thọ của con người và sự phát triển xã hội. Đây là một nhóm bệnh đa dạng, gồm trên 200 bệnh khác nhau. Một số bệnh cơ xương khớp khởi đầu đơn giản, diễn biến chậm, ít ảnh hưởng tới sức khỏe chung nhưng nhiều bệnh có nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh phức tạp, có diễn biến kéo dài, liên quan mật thiết với nhiều bệnh lý nội, ngoại khoa (tim mạch, nội tiết, miễn dịch, thận, hô hấp, tiêu hóa, thần kinh, chuyển hóa, chấn thương chỉnh hình, ngoại thần kinh, cột sống…). Tuy nhiên, các bệnh lý cơ xương khớp vẫn chưa được quan tâm đúng mức và có nhiều quan niệm rất sai lầm. Sau đây là những sai lầm thường gặp:

Các bệnh cơ xương khớp được gọi là các bệnh viêm khớp

Sự thật là các bệnh viêm khớp chỉ là một nhóm bệnh quan trọng nhất của các bệnh lý cơ xương khớp nói chung. Có rất nhiều loại viêm khớp khác nhau, được chia thành các nhóm:

Thoái hóa khớp: thường gặp nhất, chiếm 35% các bệnh lý cơ xương khớp và 50% các bệnh viêm khớp, ảnh hưởng tới 10-15% dân số và 50% dân số cao tuổi (≥ 65 tuổi).

Viêm khớp dạng thấp: chiếm 5% các bệnh cơ xương khớp và 10% các bệnh viêm khớp nhưng là một bệnh viêm khớp tự miễn hệ thống, nặng nề nhất trong các bệnh viêm khớp với tình trạng rối loạn các đáp ứng miễn dịch của cơ thể và xảy ra trên những cơ địa đặc biệt (tuổi trung niên, giới nữ và hệ HLA DR4).

Viêm khớp ở trẻ em: Là một nhóm gồm nhiều loại viêm khớp do rối loạn đáp ứng miễn dịch ở trẻ dưới 16 tuổi.

Các bệnh viêm khớp cột sống còn gọi là viêm khớp trục: Là một nhóm bệnh hệ thống thường gặp ở nam giới, tuổi trẻ. Thường gặp nhất là viêm cột sống dính khớp. Các bệnh khác bao gồm: viêm khớp vảy nến, viêm khớp phản ứng, viêm khớp liên quan đến viêm ruột…

Viêm khớp gout hay viêm khớp do tinh thể: Là bệnh viêm khớp do lắng đọng tinh thể monosodium urate tại khớp và ngoài khớp. Bệnh sẽ trở thành mạn tính, ngày càng nặng lên và ảnh hưởng tới hệ tim mạch, thận…

Viêm khớp nhiễm khuẩn: Là tình trạng nhiễm trùng (vi khuẩn, virut, ký sinh trùng) tại khớp và phần mềm cạnh khớp, có thể lan rộng tới các phần khác của cơ thể qua đường máu.

Ngoài các bệnh lý viêm khớp, còn có nhiều nhóm bệnh lý cơ xương khớp khác: loãng xương và các rối loạn xương và sụn, các hội chứng đau vùng, các bệnh lý liên quan đến thần kinh và mạch máu tại chỗ và toàn thân, các bệnh lý tăng sinh, các bệnh lý và rối loạn ngoài khớp, bệnh khớp liên quan đến rối loạn chuyển hóa và nội tiết, các rối loạn giao cảm, phản xạ…

Nên khám bác sĩ chuyên khoa khớp ngay khi có dấu hiệu của bệnh.

Nên khám bác sĩ chuyên khoa khớp ngay khi có dấu hiệu của bệnh.

Triệu chứng của bệnh cơ xương khớp chỉ là đau và nhức ở khớp

Thật ra các triệu chứng của bệnh khớp có thể khó xác định và thường không chỉ là đau và nhức ở khớp. Các bệnh khớp còn làm cho thay đổi cấu trúc xương và khớp, biến dạng và lệch trục khớp, khó khăn trong các công việc và sinh hoạt, thậm chí làm cho người bệnh trở nên tàn phế.

Một số triệu chứng thường gặp của các bệnh cơ xương khớp gồm: au cơ hoặc khớp, yếu cơ; viêm, sưng, nóng, cứng khớp, dính khớp, biến dạng hay lệch trục khớp; Viêm, sưng mí mắt, ngứa mắt hoặc mờ mắt; Mệt mỏi, khó chịu, xanh xao; Sốt, ớn lạnh; Rụng tóc; Khô mắt và khô miệng; Đau ngực, nặng ngực; Co giật hoặc đột quỵ. Nếu có các triệu chứng này, phải cho là nghiêm trọng và phải sớm đi khám bệnh.

Chỉ cần điều trị khi các triệu chứng của bệnh trở nên nặng

Khi bắt đầu có các triệu chứng của bệnh cơ xương khớp, cần gặp ngay các bác sĩ. Những tuần hoặc tháng đầu tiên ngay sau khi các bệnh này khởi phát được gọi là “cửa sổ cơ hội” của điều trị. Điều trị sớm và tích cực, ngay trong giai đoạn “cửa sổ cơ hội” có thể mang lại hiệu quả cao nhất, tăng khả năng lui bệnh, ngăn ngừa các tổn thương cấu trúc của khớp và các cơ quan khác, ngăn ngừa các biến chứng lâu dài của bệnh, đây cũng là cách điều trị kinh tế nhất cho các căn bệnh trước đây được coi là “bất trị” này.

Bác sĩ nào cũng chữa được, không cần gặp bác sĩ chuyên khoa khớp

Các bác sĩ chuyên khoa khớp sẽ xác định chẩn đoán, quản lý và điều trị bệnh một cách toàn diện, theo dõi lâu dài để bảo đảm chất lượng sống cho người bệnh và giảm thiểu tối đa các biến chứng gây tàn phế của bệnh. Người bệnh đừng mất thời giờ vô ích vào các thuốc truyền miệng, các thuốc không rõ nguồn gốc, các thuốc không có chứng cứ khoa học… Việc điều trị chỉ có thể được thiết lập trên cơ sở các chứng cứ khoa học.

Các bệnh cơ xương khớp chỉ gặp ở người cao tuổi

Mặc dù bệnh cơ xương khớp thường gặp hơn ở người cao tuổi, nhưng có tới 1/3 số bệnh nhân dưới 65 tuổi phải sống chung với các bệnh khớp. Nhiều bệnh khởi phát từ tuổi thanh niên và trung niên. Một số bệnh khớp còn ảnh hưởng tới trẻ em, có thể dẫn tới tàn phế, mù lòa và nhiều biến chứng khác, nếu không được phát hiện, chẩn đoán đúng và điều trị sớm.

Bệnh cơ xương khớp chỉ gặp ở phụ nữ

Bệnh khớp có thể gặp ở cả hai giới, tuy đa số các bệnh khớp thường gặp hơn ở giới nữ, nhưng cũng có một số bệnh lại gặp chủ yếu ở nam giới (bệnh gout, bệnh viêm cột sống dính khớp…).

Các bệnh cơ xương khớp có thể tự khỏi

Không may là đa số các bệnh cơ xương khớp đều có xu hướng trở thành mạn tính, nghĩa là không có giải pháp điều trị triệt để. Điều trị sớm và kéo dài có thể duy trì và cải thiện chức năng, giảm thiểu nguy cơ tàn phế và khả năng phải can thiệp bằng phẫu thuật. Đa số các điều trị liên quan tới các thuốc giảm đau, kháng viêm, tuy nhiên có một số bệnh đòi hỏi các thuốc đặc biệt (thuốc đặc trị, thuốc sinh học) mà các bác sĩ chuyên khoa khớp sẽ chỉ định và thảo luận với từng người bệnh. Vì chưa có thuốc nào chữa khỏi các bệnh cơ xương khớp nói chung nên việc điều trị an toàn và hiệu quả luôn là đòi hỏi trong suốt quá trình điều trị, kể cả khi chẩn đoán đã được xác định rõ.

Lời khuyên của thầy thuốc

Đã có rất nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị làm thay đổi tiên lượng của nhiều bệnh lý viêm khớp nặng, người bệnh và cộng đồng cần có thêm kiến thức về nhóm bệnh này, tránh các sai lầm nêu trên, tuân thủ điều trị, hợp tác với các thầy thuốc để việc điều trị mang lại lợi ích cao nhất.

PGS.TS.BS. Lê Anh Thư (BV Chợ Rẫy, Hội Thấp khớp học Việt Nam)

]]>
5 quan niệm sai lầm về thụ thai của giới trẻ http://tapchisuckhoedoisong.com/5-quan-niem-sai-lam-ve-thu-thai-cua-gioi-tre-15923/ Wed, 12 Sep 2018 06:48:49 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/5-quan-niem-sai-lam-ve-thu-thai-cua-gioi-tre-15923/ [...]]]>

Tuy nhiên, các em quan hệ tình dục khi chưa có kiến thức về giới tính và sức khỏe sinh sản sẽ rất dễ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục và mang thai ngoài ý muốn. Dưới đây là những suy nghĩ sai lầm của giới trẻ về chuyện thụ thai trong quan hệ tình dục.

Quan hệ tình dục lần đầu tiên thì không thể thụ thai: Đây là quan niệm rất sai lầm ở bạn gái. Nếu gặp điều kiện thuận lợi (quan hệ gần hoặc đúng vào ngày rụng trứng), tinh trùng khi vào sâu trong âm đạo, theo bản năng tự nhiên là tìm đến trứng để thụ tinh, cho dù đó là lần đầu hay lần quan hệ thứ bao nhiêu đi chăng nữa. Vì thế, đừng chủ quan khi nghĩ rằng lần đầu thì sẽ không có khả năng mang thai.

Không bao giờ có thai trong thời kỳ kinh nguyệt: Mặc dù cơ hội để có thai trong thời kỳ “đèn đỏ” là rất thấp nhưng vẫn có thể xảy ra, nhất là những người có kỳ kinh dài và quan hệ tình dục vào những ngày cuối kỳ kinh nguyệt. Trong cơ thể phụ nữ luôn có một trứng ở trong tình trạng có thể rụng bất cứ khi nào và như vậy cũng có thể thụ thai ngay khi gặp tinh trùng.

Không xuất tinh, không thể mang thai: Nhiều bạn trẻ ngây ngô cho rằng nếu chỉ cho dương vật vào bên trong âm đạo một lúc thôi thì cũng không lo có thai, hoặc nếu không xuất tinh bên trong âm đạo thì không thể có thai. Đây là suy nghĩ sai lầm. Các bạn cần biết rằng có một giai đoạn gọi là tiền xuất tinh, là khi đó có một chút dịch thấm ra ngoài dương vật trước khi xuất tinh thực sự. Một chút dịch này hoàn toàn có thể chứa tinh trùng. Khi đó, khả năng mang thai là hoàn toàn có thể.

Giao hợp chọn ngày? Không ít cặp tình nhân chọn cách giao hợp chọn ngày để tránh thai. Họ chỉ quan hệ vào ngày mà họ cho là an toàn, tính theo kỳ kinh của người bạn gái. Đây cũng là một cách khá thông dụng, nhưng trên thực tế vẫn có đến tận 13% sự cố mang thai ngoài ý muốn, khi các bạn sử dụng biện pháp này. Đồng thời, biện pháp này không có tính bảo vệ với những bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Thụt rửa âm đạo sau quan hệ nhằm ngăn ngừa thụ thai: Sau quan hệ tình dục, nhiều bạn nữ muốn bật dậy ngay để thụt rửa âm đạo với ý nghĩ làm như vậy sẽ không mang thai. Đây là quan niệm sai lầm. Thụt rửa sâu âm đạo đã là việc không nên. Việc thụt rửa ngay khi vừa mới quan hệ lại càng không nên vì như vậy rất dễ khiến âm đạo bị tổn thương và viêm nhiễm. Hơn nữa, việc thụt rửa âm đạo sau quan hệ cũng không ngăn được việc thụ thai.

LÊ THỤC ANH

]]>
Những sai lầm trong chăm sóc mắt http://tapchisuckhoedoisong.com/nhung-sai-lam-trong-cham-soc-mat-13919/ Sun, 05 Aug 2018 05:52:33 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/nhung-sai-lam-trong-cham-soc-mat-13919/ [...]]]>

như: các thoái hóa điểm vàng, đục thủy tinh thể, bệnh võng mạc do đái tháo đường và tăng nhãn áp.

70% số người trưởng thành thừa nhận thị lực giảm sút ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), cứ mỗi 5 giây thế giới lại có thêm 1 người bị khiếm thị và cứ 5 người khiếm thị có 4 người lẽ ra đã có thể chữa trị được.

Bảo vệ thị lực là một phần thiết yếu trong chăm sóc sức khỏe của bạn. Những tổn thương mắt có thể đến từ những điều tưởng chừng nhỏ nhặt nhất hoặc chúng ta có thể đã mắc phải nhiều sai lầm trong khi chăm sóc mắt.

Những sai lầm trong chăm sóc mắt

Những sai lầm

Sử dụng kính sát tròng sai cách:

Ví dụ như: khi ngủ hoặc luôn đeo kính sát tròng trong thời gian dài dẫn đến nguy cơ tiến triển loét giác mạc gấp 10 – 15 lần so với những người chỉ dùng trong thời gian ngắn. Kính sát tròng làm giảm oxy tiếp xúc với giác mạc, gây nhiễm trùng và kích thích vi khuẩn phát triển.

Cho dù chỉ là nghỉ trưa khoảng 20 phút vẫn nên tháo kính ra. Và trong trường hợp “lười”, khi thức dậy hoặc sau một đoạn đường dài chạy xe về nhà giữa khói bụi và ô nhiễm, không nên cố gắng tháo kính sát tròng ngay lập tức; nếu đôi mắt của bạn bị khô, bạn thực sự có thể kéo theo các lớp trên cùng của giác mạc đi cùng với kính. Thay vào đó, chờ từ 20 – 30 phút và sử dụng nước mắt nhân tạo trước khi tháo các tiếp điểm.

Dụi mắt khi ngứa: khi đôi mắt bị ngứa, cách tốt nhất nên đóng mí mắt lại và xoa nhẹ bên ngoài mắt. Chà xát quá mạnh có thể dẫn đến vỡ mạch máu, dễ làm trầy biểu mô giác mạc ảnh hưởng đến thị lực.

Một nguyên nhân khác là do tay là nguồn “cung cấp” vi khuẩn. Đôi mắt được bảo vệ bởi các màng nhầy – mô ẩm ướt có thể dễ dàng thu thập bụi bẩn và vi trùng, vi khuẩn – vì vậy chúng là nơi tuyệt vời để vi khuẩn phát triển.

Dán mắt vào màn hình cả ngày lẫn đêm: màn hình điện tử, bao gồm máy tính, máy tính bảng và điện thoại thông minh, thường phát ra ánh sáng màu xanh, mà theo các chuyên gia về nhãn khoa, cũng gây hại tương tự tia cực tím của mặt trời; dẫn đến tình trạng mỏi mắt, khô mắt, giảm thị lực.

Sử dụng chì kẻ mắt thường xuyên, đi ngủ mà không rửa sạch lớp trang điểm: đặc biệt, khi đang đeo kính áp tròng, mặt kính áp tròng sẽ bị phủ các hạt trang điểm nhỏ, có thể làm mất nguồn cung cấp oxy cho mắt. Và thậm chí nếu không đeo tiếp xúc, các thành phần từ mỹ phẩm trang điểm này cũng có thể mang vi trùng gây nhiễm trùng, tăng nguy cơ viêm bờ mi, viêm kết mạc.

Sử dụng thuốc nhỏ mắt quá hạn sử dụng: không có tác dụng điều trị, ảnh hưởng đến tình trạng bệnh mắt, và thậm chí có thể dẫn đến viêm giác mạc Acanthamoeba – nhiễm trùng giác mạc kháng thuốc.

Quá phụ thuộc vào dung dịch chống đỏ và khô mắt: dung dịch chống đỏ mắt thường có chứa chất co mạch Tetrahydrozolin hydrochloride, Naphazoline… lâu dài sẽ dễ bị cườm nước.

Không có thói quen sử dụng kính mát: khi đi đường dễ bị gió bụi bám vào mắt gây viêm kết mạc, khô mắt, đồng thời tia tử ngoại từ ánh nắng mặt trời dễ gây nên mộng thịt.

Những sai lầm trong chăm sóc mắt

Những cách bảo vệ đôi mắt

Lên kế hoạch kiểm tra mắt định kỳ trên 40 tuổi để phát hiện những bệnh lý có thể chữa được và phòng ngừa (đái tháo đường, cao huyết áp, cận nặng…).

Nghỉ ngơi mắt đúng cách: theo quy tắc 20 – 20 – 20: mỗi 20 phút nhìn vào máy tính, điện thoại – 20 giây rời màn hình – nhìn ra khoảng cách 20 feet tương đương 5 – 6m.

Đeo kính mát khi ra đường để chống nắng và bụi bặm để bảo vệ bề mặt nhãn cầu. Kính mát phù hợp sẽ giúp bảo vệ mắt khỏi tia cực tím của mặt trời (UV). Phơi nhiễm tia cực tím sẽ làm tăng nguy cơ đục thủy tinh thể và thoái hóa điểm vàng. Chọn kính mát giúp ngăn chặn 99 – 100% tia UVA và tia UVB. Kính phân cực còn giúp làm giảm độ chói khi bạn lái xe.

Một chế độ dinh dưỡng giàu axít béo omega-3, lutein, kẽm và vitamin C và E có thể giúp ngăn ngừa các vấn đề về mắt liên quan đến tuổi tác như thoái hóa điểm mắt và đục thủy tinh thể.

– Ăn nhiều trái cây như đu đủ, bơ, cà rốt, khoai lang, cà chua, bắp ngô và các loại rau lá màu xanh… giúp tăng cường thị lực và giúp đôi mắt sáng khỏe hơn.

– Cá hồi, cá ngừ, và các loại dầu cá khác.

– Trứng, quả hạch, đậu, và các nguồn protein không có nguồn gốc động vật khác.

– Cam và các loại trái cây hoặc nước ép thuộc họ cam quýt.

Bên cạnh đó, một chế độ ăn uống cân bằng cũng giúp bạn giữ gìn sức khoẻ, làm giảm tỉ lệ mắc bệnh béo phì và các bệnh liên quan như đái tháo đường týp 2, nguyên nhân hàng đầu gây mù ở người trưởng thành.

Hạn chế hút thuốc lá: nếu bạn mới hút thuốc, hãy dừng lại càng sớm càng tốt. Nếu đã nghiện, bạn cần quyết tâm gấp nhiều lần để bỏ thuốc. Hút thuốc không chỉ gây ra các bệnh về đường hô hấp như chúng ta đã biết, mà còn là nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh nguy hiểm cho mắt như đục thủy tinh thể, tổn thương thần kinh thị giác và thoái hóa điểm vàng.

Tích cực tham gia các hoạt động ngoài trời vì điều này sẽ làm giảm nguy cơ cận thị ở trẻ nhỏ.

PGS.TS.BS. TRẦN THỊ PHƯƠNG THU

]]>
5 sai lầm thường gặp khi sử dụng bình sữa http://tapchisuckhoedoisong.com/5-sai-lam-thuong-gap-khi-su-dung-binh-sua-10892/ Wed, 25 Jul 2018 08:21:28 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/5-sai-lam-thuong-gap-khi-su-dung-binh-sua-10892/ [...]]]>

Pha sữa đặc hơn hoặc loãng hơn hướng dẫn

Một số người có ý pha sữa đặc để trẻ bú lượng ít nhưng nhận được nhiều chất dinh dưỡng, hoặc có người lại pha loãng sữa để “mau tiêu”, hạn chế tiêu chảy… Thật ra tất cả những điều trên đều không đúng. Các chuyên gia dinh dưỡng cũng như nhà sản xuất sữa đã có những nghiên cứu rất kỹ về sản phẩm sữa sau khi được pha. Nồng độ thẩm thấu của sữa cũng như tỉ lệ cân đối giữa các thành phần trong sữa đã được tính toán gần đúng như sữa mẹ, sữa tươi để thuận lợi nhất cho sự tiêu hóa và hấp thu hoàn toàn các chất dinh dưỡng vào cơ thể, kể cả thành phần nước.

Vì vậy, sữa quá đặc sẽ “khó tiêu” và “tiêu không hoàn toàn”, còn sữa loãng sẽ không đủ dinh dưỡng để nuôi trẻ. Những trường hợp phải pha sữa khác với hướng dẫn phải có chỉ định của bác sĩ, thường chỉ dùng trong thời gian ngắn với sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ.

 

Pha sữa bột với nước quá nóng hoặc quá nguội

 

Thành phần của chất dinh dưỡng trong sữa được đo đạc và công bố khi sữa bột đã được pha hoàn tươi. Điều cần lưu ý là một số chất dinh dưỡng như lysin, acid folic, các vitamin nhóm B, … dễ bị hư hỏng, mất tác dụng ở nhiệt độ cao. Vì vậy, nếu bạn pha sữa nóng hơn nhiệt độ đã hướng dẫn thì sẽ mất chất. Pha sữa với nước nguội thì sữa sẽ không tan hết, sau khi trẻ bú sẽ thấy các cục sữa nhỏ đóng đầy trên thành bình mà không vào hết cho trẻ. Thường nước ấm độ 40-600C là đủ, bạn có thể pha 2/3 nước nguội với 1/3 nước sôi để có nhiệt độ trên, cho sữa vào và lắc bình nhiều lần cho sữa tan hết (không thấy sữa đóng cục trên thành bình), để sữa nguội bớt và trẻ có thể bú ngay.

Vặn nắp bình sữa quá chặt khi cho trẻ bú

Một nguyên tắc vật lý xảy ra khi sữa được mút từ bình vào miệng trẻ thì không khí từ bên ngoài phải đi vào trong bình sữa, tức là bé chỉ bú tốt khi thấy nhiều bọt sữa lớn trào lên trong bình. Nếu ta vặn nắp núm vú quá chặt thì bé sẽ phải mút rất mạnh mới lấy sữa ra được, sẽ rất tốn sức, lại bú ít và bú chậm. Trước khi cho bú, bạn nên vặn nắp núm vú lỏng ra hoàn toàn sau đó vặn ngược chiều lại vừa sít nhẹ là được. Dù trẻ bú còn ít nhưng không nên dùng bình sữa nhỏ xíu 60ml mà nên mua loại trung 140ml để trẻ dễ bú.

 

Không nên vặn nắp bình sữa quá chặt trước khi cho trẻ bú.

Pha sẵn một bình đầy sữa để cho trẻ uống dần trong đêm

 

Cách này thì rất thuận tiện cho mẹ và cho… vi trùng, vì vậy sẽ không tốt cho con. Khi trẻ ngậm núm vú, nước miếng sẽ lưu lại trên núm và có thể vào trong bình sữa, vì vậy sữa sẽ bị ôi thiu nhanh hơn là khi núm vú đã tiệt trùng chưa được ngậm. Sữa là một môi trường rất tốt để vi trùng phát triển nhanh chóng. Chỉ cần 2 giờ, vi trùng sẽ sinh sản 210 lần. Tốt nhất là pha sữa vừa đủ với cữ bú của trẻ và cho bú ngay sau khi pha. Bình sữa sau khi pha chỉ để tối đa 1-2 giờ với điều kiện luộc sôi bình, kỹ thuật pha sữa đúng và trẻ chưa mút vú. Nếu trẻ đã ngậm vú thì phải bú hết trong vòng 15-30 phút.

Lưu trữ bình sữa trong tủ lạnh hoặc dùng bình ủ ấm

Bình ủ ấm chỉ có tác dụng giữ ấm lâu chứ không có tác dụng ngăn ngừa nhiễm trùng. Việc trữ sữa trong tủ lạnh giúp kìm hãm sự  phát triển của vi trùng, nhưng không nên để lâu quá 2-3 giờ. Trước khi cho bú, bạn cần làm ấm lại bằng cách ngâm bình trong nước ấm.

Sữa là thực phẩm rất hoàn hảo, nhưng đừng để chính bình sữa mang lại bệnh tật cho trẻ. Chúc mẹ và bé vui khỏe!

BS.Đào Thị Yến Thủy (Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM)

]]>
5 sai lầm bà mẹ thường gặp khi nuôi con http://tapchisuckhoedoisong.com/5-sai-lam-ba-me-thuong-gap-khi-nuoi-con-10719/ Wed, 25 Jul 2018 08:02:58 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/5-sai-lam-ba-me-thuong-gap-khi-nuoi-con-10719/ [...]]]>

Trẻ bị Suy dinh dưỡng do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ những sai lầm trong nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ của các bậc cha mẹ đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, vận động và trí thông minh của trẻ.

Hiện nay, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân là 14,1%, suy dinh dưỡng thấp còi là 24,6%. Sau đây là 5 sai lầm bà mẹ thường gặp khi nuôi con:

Không cho con bú sữa mẹ

Năm 2005, tỉ lệ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ là 15,5%, hiện nay tỉ lệ này ở mức 19,6% và Việt Nam đang nằm trong nhóm có tỉ lệ nuôi con bằng sữa mẹ thấp. Theo kết quả nghiên cứu tại Kiến Thụy, Hải Phòng, tỉ lệ bà mẹ cho con bú sau sinh 1 giờ đầu là 55,2%, nhưng tỉ lệ bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 20,2%.

Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho trẻ. Trong sữa mẹ có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng với tỉ lệ cân đối phù hợp với hệ tiêu hóa và hấp thụ của trẻ. Sữa mẹ còn có kháng thể giúp trẻ tăng cường sức đề kháng chống lại các bệnh nhiễm trùng. Việc nuôi con bằng sữa mẹ sẽ giảm nguy cơ thiếu dinh dưỡng hoặc thừa dinh dưỡng (suy dinh dưỡng), các bệnh mãn tính không lây khi trưởng thành, đặc biệt là bệnh lý tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường…

 

Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho trẻSữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho trẻ

 

Mặc dù sữa mẹ có nhiều lợi ích cho trẻ, nhưng không phải bà mẹ nào cũng biết và thực hiện. Các yếu tố ảnh hưởng đến nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu thường là: mẹ phải đi làm sớm, bà mẹ nghĩ rằng sữa của mình không tốt bằng sữa công thức, chuộng sữa ngoại, muốn giữ gìn vóc dáng…

Thời điểm cho trẻ ăn bổ sung (ăn sam, ăn dặm) là khi trẻ tròn 6 tháng tuổi

 

Trẻ phải uống sữa ngoài, ăn dặm trước 6 tháng, vì người mẹ phải đi làm, nên trẻ không có điều kiện được bú sữa mẹ hoàn toàn. Tình trạng quảng cáo, tiếp thị các sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ (thậm chí cả sữa non) đã tác động khá tiêu cực khiến một số bà mẹ không tin tưởng vào giá trị sữa của mình, hoặc quá chuộng sữa ngoại. Nhiều bà mẹ muốn giữ gìn vóc dáng sau sinh nên đã cho con bú sữa ngoài thay vì bú mẹ. Ngoài ra, một số bà mẹ không biết cách cho trẻ bú đúng cách và bảo vệ nguồn sữa của mình cho con.

Ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn

Ăn bổ sung là hình thức bổ sung thêm thức ăn khác cho trẻ ngoài sữa mẹ. Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới, thời điểm cho trẻ ăn bổ sung (ăn sam, ăn dặm) là khi trẻ tròn 6 tháng tuổi (180 ngày). Trẻ sau 6 tháng tuổi, nhu cầu tăng cao sữa mẹ không đáp ứng đủ vì vậy cần bổ sung thức ăn cho trẻ. Hiện nay vẫn còn bà mẹ quan niệm rằng cho trẻ ăn bổ sung sớm, trẻ sẽ mau cứng cáp hơn và trẻ không bị đói, vì vậy đã cho trẻ ăn bổ sung từ tháng thứ 4, 5 thậm chí không ít trẻ còn được ăn bổ sung từ tháng thứ 3. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tận dụng nguồn sữa mẹ, trẻ dễ bị rối loạn tiêu hóa dẫn đến suy dinh dưỡng. Đặc biệt, một số bà mẹ ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn còn cho trẻ ăn cơm nhai, cơm mớm gây mất vệ sinh, thậm chí còn là nguồn lây lan truyền bệnh cho trẻ.

Theo các chuyên gia dinh dưỡng, trẻ ăn bổ sung sớm sẽ làm tăng gánh nặng cho bộ máy tiêu hóa, trong khi hệ tiêu hóa của trẻ còn non yếu làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa và hấp thu, sức khỏe và sự phát triển của trẻ. Thức ăn bổ sung thường tiêu hóa chậm, nên bé sẽ biếng ăn, không đủ chất dinh dưỡng, bé sẽ chậm tăng cân và dễ bị suy dinh dưỡng. Một chế độ ăn phù hợp với trẻ là chế độ ăn phải được thực hiện tuần tự từ các thức ăn lỏng như sữa, chuyển sang bột loãng, bột đặc rồi cháo và cơm.

Ngược lại, khi cho trẻ ăn bổ sung muộn, sữa mẹ không đủ đáp ứng nhu cầu thì trẻ cũng sẽ chậm tăng cân. Vì sữa mẹ sau 6 tháng không thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng ngày càng tăng lên của trẻ, nên cần phải cho trẻ ăn thêm thức ăn bổ sung. Ngoài việc bú sữa mẹ, trẻ cần được ăn thêm ít nhất là 1 – 2 bữa bột trong một ngày và số bữa ăn tùy theo độ tuổi.

Chăm sóc và nuôi dưỡng khi trẻ ốm

Chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ trước, trong, sau khi bị ốm rất quan trọng vì nó sẽ làm cho bệnh mau khỏi, mau phục hồi sức khỏe và tăng cường sức đề kháng đối với bệnh tật. Khi trẻ bị ốm: sốt, tiêu chảy… thì nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng cần nhiều hơn bình thường, trong khi đó một số bà mẹ lại có quan niệm sai lầm bắt trẻ phải ăn kiêng khem như: không cho trẻ bú, không cho trẻ ăn dầu hoặc mỡ, không cho trẻ ăn chất đạm, không cho trẻ ăn rau xanh, chỉ cho ăn bột ngọt (đường)… vì sợ trẻ đi ngoài nhiều hơn. Trẻ bị sốt sẽ mất nước, nhưng không bù nước cho trẻ và uống nước Oresol, bắt trẻ ăn kiêng… Sau khi khỏi bệnh, không cho trẻ ăn nhiều hơn để trẻ mau chóng phục hồi sức khỏe. Chế độ ăn uống kiêng khem, bữa ăn của trẻ mất cân đối không đủ chất, chính vì vậy trẻ dễ bị nguy cơ suy dinh dưỡng.

Cho trẻ ăn quá nhiều chất bổ dưỡng

Nhu cầu chất đạm của trẻ từ 6 – 11 tháng tuổi là 2 – 2,2 g/kg/ngày hay từ 18 – 20g/ngày (tương ứng với 20 – 30g thịt/bữa). Nhu cầu dầu hoặc mỡ từ 1 – 2 thìa cà phê/bữa và rau xanh 1 – 2 thìa cà phê/bữa. Công thức một bữa bột cua cho trẻ 7 – 9 tháng tuổi gồm: bột gạo tẻ 4 thìa cà phê, nước lọc cua 1 bát con, mỡ ăn 1 thìa cà phê, rau xanh giã nhỏ 2 thìa cà phê. Trong năm đầu, nhu cầu dinh dưỡng của trẻ rất cao cần thiết cho sự phát triển, trong khi đó dạ dày của trẻ thì nhỏ, hệ tiêu hóa lại còn rất yếu, nếu nuôi dưỡng không tốt rất dễ bị tiêu chảy, kéo theo suy dinh dưỡng, còi xương. Vì vậy, các bà mẹ phải hết sức chú ý vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trong khi lựa chọn thực phẩm, trong bảo quản/chế biến… , đồng thời cho trẻ ăn đúng nhu cầu cần thiết, tránh ăn quá nhiều chất bổ dưỡng.

 

5 sai lầm bà mẹ thường gặp khi nuôi conCho trẻ ăn đúng nhu cầu cần thiết, tránh ăn quá nhiều chất bổ dưỡng

 

Bữa ăn bổ sung của trẻ phải đảm bảo đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu: nhóm đường bột, nhóm cung cấp chất đạm, chất béo, vitamin và chất khoáng. Cho ăn đủ nhu cầu, cân đối các chất dinh dưỡng giúp cho trẻ phát triển tốt, ngược lại trẻ sẽ bị nguy cơ suy dinh dưỡng nhẹ cân và suy dinh dưỡng thấp còi. Nếu khẩu phần ăn quá nhiều chất đạm, khiến hệ tiêu hóa non nớt phải làm việc mệt mỏi, dễ rối loạn tiêu hóa, gây phân sống, tiêu chảy…

Một sai lầm khác cũng hay gặp là một số bà mẹ vẫn cho rằng nước thịt, nước hầm xương là đủ bổ, chỉ cho trẻ ăn nước không cho trẻ ăn cái…  trong khi các loại nước này hầu như không chứa đạm. Các thức ăn cung cấp chất đạm vẫn còn được sử dụng đơn điệu. Nhiều bà mẹ không cho con ăn cá, cua, tôm, trứng… sợ trẻ bị dị ứng với thức ăn, sợ chất tanh… dễ gây chán ăn, đồng thời tạo thói quen ăn uống thiên lệch, khó thay đổi về sau.

Lớn lên sẽ “nuôi dưỡng/chăm sóc bù”

Do tác động của lối sống hiện đại, các bậc cha mẹ thường không có điều kiện chăm sóc con từ bé, vì họ quan niệm rằng sau này con lớn lên, họ có thể chăm sóc “bù”. Đây là một quan điểm hết sức sai lầm, vẫn còn tồn tại ở không ít phụ huynh, nhất là những gia đình trẻ.

Thực tế khoa học đã chứng minh suy dinh dưỡng trong giai đoạn phát triển quan trọng của con người – trước và trong quá trình mang thai và trong 2 năm đầu đời của trẻ đã lập trình cho mỗi cá nhân trong việc điều tiết tăng trưởng và ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ. Do vậy, suy dinh dưỡng đầu đời có thể dẫn đến những tổn thương không phục hồi được đối với sự phát triển của não, hệ miễn dịch và tăng trưởng thể lực. Trẻ có não kém phát triển những năm đầu đời sẽ có nguy cơ về các bệnh của hệ thần kinh sau này: học tập kém, bỏ học sớm hơn, kỹ năng làm việc kém… Giai đoạn 1.000 ngày đầu đời chính là cửa sổ cơ hội để phòng ngừa các bệnh mạn tính không lây có liên quan đến dinh dưỡng như: thừa cân béo phì, rối loạn chuyển hóa, các bệnh tim mạch, huyết áp, loãng xương. Vì vậy, việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ từ khi còn trong vào thai đến khi trẻ được 2 tuổi là rất quan trọng, nó quyết định đến chiều cao, cân nặng, bệnh tật và bộ não của trẻ khi trưởng thành. Nếu giai đoạn 1.000 ngày vàng không được chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì dù chúng ta có nỗ lực đến đâu cũng không thể bù đắp được vì hầu như mọi chuyện đã được “an bài”. Vì vậy, việc hỗ trợ dinh dưỡng ở giai đoạn này đạt kết quả tối ưu so với bất kỳ giai đoạn nào khác trong cuộc đời của trẻ.

ThS.BS. NGUYỄN VĂN TIẾN

(Trung tâm Giáo dục Truyền thông dinh dưỡng Viện Dinh dưỡng Quốc gia)

]]>
6 sai lầm nên tránh khi tập thể hình http://tapchisuckhoedoisong.com/6-sai-lam-nen-tranh-khi-tap-the-hinh-10340/ Wed, 25 Jul 2018 06:50:29 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/6-sai-lam-nen-tranh-khi-tap-the-hinh-10340/ [...]]]>

Tuy nhiên không phải ai cũng đạt được hiệu quả với vóc dáng mình mong đợi. Môn thể thao này đòi hỏi những nguyên tắc nhất định khi tập luyện. Nếu tập luyện không đúng cách sẽ không mang lại hiệu quả, đồng thời còn tiêu hao sức lực và phản tác dụng. Dưới đây là những lỗi nghiêm trọng thường gặp nhất khi tập gym mà mọi người nên tránh.

Dinh dưỡng chưa phù hợp

Dinh dưỡng cho người tập gym rất quan trọng. Hãy nhớ ăn uống điều độ không nên ăn quá nhiều và chia nhỏ bữa ăn. Không nên chỉ tập trung vào dung nạp calo mà còn phải chú ý đến tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong mỗi bữa ăn và số lượng bữa ăn mỗi ngày. Lượng calo cần phải nạp nhiều calo hơn mức sử dụng mỗi ngày. Dù gì thì chúng ta cũng cần phải tiêu thụ nhiều calo để có thể tăng số lượng cơ bắp. Tuy nhiên, thành phần dinh dưỡng của từng bữa ăn cũng nên ở mức quy định. Một bữa ăn cho người tập gym nên có 50% là carbonhydrate, 30% đạm và 20% chất béo là vừa đủ cho quá trình sản sinh cơ bắp. Nhiều người vì mong muốn mau có cơ bắp mà đã phá vỡ quy luật này. Tập trung quá nhiều dinh dưỡng vào một bữa ăn sẽ ảnh hưởng xấu đến hệ tiêu hóa và khi vào phòng tập sẽ trở nên ì ạch.

Bạn có thể đốt cháy 400 calorie trong một giờ tập nhưng với điều kiện không mang theo thức ăn như bánh mì burger, khoai tây chiên trong quá trình tập. Nếu bạn đang muốn có thân hình khỏe khoắn, hãy tạm biệt những thức ăn chiên dầu, nhiều mỡ. Ăn nhiều chất béo trong hoặc ngay sau tập luyện sẽ dẫn đến phản tác dụng. Đối với những người đang phấn đấu có một thân hình vạm vỡ, nhiều cơ, nên hướng đến chế độ ăn cân bằng và dinh dưỡng, không nên lựa chọn thức ăn nhanh.

Tập thể hình nếu không đúng cách sẽ tiêu hao sức lực và phản tác dụng. (ảnh minh họa)

Tập thể hình nếu không đúng cách sẽ tiêu hao sức lực và phản tác dụng. (ảnh minh họa)

Không tuân theo các bài tập cơ bản

Trong môn thể hình, những người kiên trì sẽ luôn là người thành công. Hãy luôn tuân theo những bài tập cơ bản như các hình thức nâng tạ căn bản vì đó chính là nền tảng quan trọng trong quá trình tập luyện. Những bài tập như vậy thường phối hợp nhiều khớp và vận dụng nhiều cơ bắp. Chúng sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cơ bắp vì đã kích hoạt tối đa lượng cơ bắp cần thiết. Nhiều người khi mới tập thường quên mất là để có cơ bắp sẽ mất khá nhiều thời gian. Khi cảm thấy quá lâu hoặc gặp trở ngại thì họ sẽ nghĩ đến chuyện đổi hình thức tập luyện nâng cao hơn. Những bài tập nâng cao thường không hiệu quả trong việc giúp cơ bắp tăng thêm như các bài tập cơ bản. Vì vậy, hãy luôn bám theo những bài tập cơ bản. Còn những bài tập nâng cao thì hãy để dành cho các vận động viên chuyên nghiệp.

Tập luyện quá sức

Đây là lỗi thường gặp của những người mới tập và muốn lên cơ nhanh. Nếu thời gian tập luyện là quá 1 tiếng thì nghĩa là bạn đã tập luyện quá sức rồi đấy. Họ thường nghĩ là tập 30 phút là đủ, tuy nhiên nếu tăng lên 60 phút thì kết quả nhận được sẽ nhân đôi. Suy nghĩ này hoàn toàn sai lầm. Có thể tập với cường độ cao trong thời gian ngắn hoặc có thể tập lâu hơn với cường độ tập vừa phải, chứ không nên tập quá lâu và quá sức. Tập quá lâu sẽ hại cơ bắp hơn là cơ bắp phát triển. Trường hợp xấu nhất là các bạn sẽ tập luyện quá sức đến nỗi cơ thể khó có thể hồi phục kịp và như vậy có nghĩa là thất bại. Cơ thể thường xuyên trong tình trạng mệt mỏi, đuối sức. Hãy tập thật chăm chỉ nhưng chỉ nên giới hạn thời gian tập mỗi vùng cơ ở mức từ 20-30 phút.

Một lỗi khác mà người tập cũng thường mắc là sử dụng sai trọng lượng. Trong khi thách thức bản thân trong phòng tập thể hình là cách để tăng sức mạnh cơ bắp, tim mạch, một số người có xu hướng thực hiện điều này một cách tiêu cực. Khi tăng trọng lượng tập luyện, bạn phải chắc rằng trọng lượng này được kiểm soát. Trọng lượng quá lớn cũng khiến con người tập trung toàn bộ cơ thể vào quả tạ (thiết bị tập) hoặc dùng các động tác lấy trớn khác để nâng vật. Cuối cùng, bạn nâng được quả tạ nhưng không cơ bắp không làm việc được nhiều, dẫn đến phản tác dụng.

Thời gian tập và nghỉ chưa hợp lý

Lỗi này chia hai trạng thái: tập quá nhiều không nghỉ ngơi hoặc nghỉ nhiều hơn tập. Có khi nào bữa tập thể hình của bạn bị rối tung với một mớ điện thoại và âm nhạc, mạng xã hội, bạn bè? Nếu bạn đang nghỉ giải lao chỉ vì tự thấy mình cần thì hãy cân nhắc. Giờ nghỉ giải lao cho phép bạn phục hồi đủ để phát huy hơn nữa trong bài tập tiếp theo. Vì vậy, bạn nên tập xong một hiệp và chỉ nên nghỉ ngơi chốc lát để bắt đầu bài tập mới, chứ không phải tập vài động tác đã nghỉ. Nhưng cũng không nên tập liên tục với cường độ cao mà không nghỉ giữa chừng. Như vậy cũng không tốt cho sức khỏe.

Không nghỉ ngơi và ngủ đầy đủ

Siêng tập luyện cũng tốt nhưng cũng cần nghỉ ngơi hợp lý. Thời gian nghỉ ngơi tối thiểu giữa các lần tập luyện là từ 48-72 tiếng. Đa phần các vận động viên giàu kinh nghiệm thường tập một bộ phận không quá 1 lần mỗi tuần. Khi tập luyện với cường độ cao, ví dụ như nâng tạ quá nặng, các bạn rút cạn sức cơ thể mình. Đừng bao giờ xem nhẹ thời gian nghỉ ngơi vì chính lúc đó là lúc mà cơ bắp bắt đầu sinh sản. Ngủ ngon cũng rất quan trọng vì các nghiên cứu đã cho thấy chúng ta cần ngủ nhiều hơn mức bình thường. Với vận động viên thì 8-9 tiếng ngủ là mức tối thiểu. Người tập gym nghiệp dư thì nên ngủ từ 7-8 tiếng mỗi ngày. Đây là thời gian cần và đủ để cơ thể tái tạo sức lực.

Bỏ tập giữa chừng

Kiên trì chính là thứ bạn cần nếu bạn muốn có cơ bắp. Cơ thể bạn là một hệ thống sinh học và vì vậy nó cần phải được kích hoạt lại sau mỗi lượt nghỉ. Để đạt kết quả tối ưu, hãy luôn duy trì lịch tập đều đặn. Bỏ tập giữa chừng chỉ làm chậm tiến độ và đôi khi còn kéo lui cả quá trình tập luyện. Nếu cảm thấy cơ thể không hồi phục kịp thì nên nghỉ hoặc tập những bài tập nhẹ hơn. Tuy nhiên, nếu nghỉ tập không có lý do thì chính bạn sẽ đánh mất rất nhiều lợi ích. Nghỉ tập giữa chừng như vậy sẽ ảnh hưởng xấu đến cả thể chất lẫn tinh thần của bạn. Bạn sẽ không thực hiện được mong muốn và dần sẽ thành một thói quen xấu.

BS. Hạnh Nguyễn

]]>
10 thói quen ăn uống sai lầm sau thời kỳ mãn kinh http://tapchisuckhoedoisong.com/10-thoi-quen-an-uong-sai-lam-sau-thoi-ky-man-kinh-5514/ Thu, 19 Jul 2018 14:22:49 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/10-thoi-quen-an-uong-sai-lam-sau-thoi-ky-man-kinh-5514/ [...]]]>

Chỉ cần thực hiện một số thay đổi nhỏ thôi và cố gắng duy trì chúng trong giai đoạn tiếp theo cũng đủ để giúp bạn đạt được mục tiêu trên. Dưới đây là 10 sai lầm trong ăn uống trong giai đoạn mãn kinh mà bạn thường hay mắc phải nhất. Hãy đọc để biết cách phòng tránh và điều chỉnh cho hợp lý nhé.

Tránh ăn tất cả các loại đường

Sự dao động về nồng độ hormone trong cơ thể có thể ảnh hưởng đến khả năng duy trì độ ổn định của đường huyết, do vậy giảm lượng đường tiêu thụ và yếu tố quan trọng giúp giảm cân và duy trì mức cân nặng hợp lý. Tuy nhiên theo tiến sỹ Barone Gibbs thuộc đại học Pittburgh, việc tránh ăn tất cả các loại đồ ngọt lại hoàn toàn không phải là tốt.

Mặc dù những phụ nữ trong nghiên cứu của bà những người đã giảm tiêu thụ đường có thể giảm nhiều cân nhất và đã duy trì được mức cân nặng đó trong vòng 4 năm sau khi bắt đầu nghiên cứu nhưng bà cũng nói rằng những phụ nữ này đã không loại bỏ đường hoàn toàn khỏi chế độ ăn của họ vì quả thật đây là thói quen rất khó từ bỏ. Đường tinh luyện sử dụng trong bánh quy và bánh ngọt là loại đường bạn nên hạn chế tiêu thụ nhất. Thay vào đó hãy cung cấp cho cơ thể những loại đường tự nhiên trong trái cây.

Chỉ ăn toàn những thực phẩm không béo

Những thực phẩm không béo hoặc giảm béo không hoàn toàn là lựa chọn phù hợp cho những phụ nữ đang ở độ tuổi mãn kinh bởi một số lý do.

  • Thứ nhất, cơ thể bạn sẽ không được cung cấp đủ các loại chất béo lành mạnh để chống lại các bệnh tim mạch, là nhóm bệnh thường gặp ở phụ nữ độ tuổi mãn kinh do kết hợp của các yếu tố như giảm tiết estrogen, chế độ ăn nghèo nàn và thiếu luyện tập thể dục.
  • Thứ hai, nếu tiêu thụ quá nhiều các thực phẩm không béo như nước sốt salad và bơ lạc, bạn sẽ tự tăng lượng đường nạp vào cơ thể và điều này không hề tốt cho việc kiểm soát cân nặng, mức năng lượng và sức khỏe tổng thể.

Bạn nên hạn chế những thực phẩm chế biến sẵn và tập trung vào những thực phẩm có chứa chất béo nguồn gốc thực vật giàu vitamin E, chất chống oxy hóa và omega-3 như là các loại quả hạch, cá và quả bơ.

Những chất béo lành mạnh này thậm chí còn có khả năng phòng ngừa ung thư đại tràng. Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ung thư đại tràng tăng cao trong nhóm phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh mà không sử dụng liệu pháp thay thế hormone.

Duy trì những thói quen chỉ phù hợp cho những người ở độ tuổi 30

Nếu bạn đang cố gắng để giảm cân trong thời kỳ mãn kinh, bạn có thể cảm thấy nản lòng khi những mục tiêu bạn đặt ra không thực sự phát huy hiệu quả như hồi bạn còn trẻ. Tất cả những điều này đều có lý do của nó. Trong và sau mãn kinh, sự thay đổi về quá trình chuyển hóa có thể dẫn đến tăng cân, nhất là ở những phụ nữ có xu hướng ít hoạt động khi còn trẻ. Ngoài ra khi bước vào giai đoạn mãn kinh, bạn thường cần ít năng lượng hơn thời kỳ 30 – 40 tuổi.

Có hai cách để giúp cắt giảm năng lượng nạp vào hàng ngày. Hãy trao đổi với bác sỹ hoặc chuyên gia dinh dưỡng để xác định được chính xác nhu cầu năng lượng hàng ngày của bạn đồng thời tích cực hoạt động hơn nữa, ví dụ như tập các bài tập để làm tăng khối cơ (phụ nữ thường bị mất khá nhiều cơ sau thời kỳ mãn kinh) cùng với các biện pháp làm tăng sức mạnh và mật độ xương. Bài tập fitness lý tưởng bao gồm đi bộ 10.000 bước/ngày sử dụng máy đếm bước đi hoặc tập luyện tăng cường sức đề kháng với tạ.

Quá lạm dụng canxi

Nếu bạn đã chuẩn bị cho bản thân một chế độ ăn uống cân bằng hợp lý rồi nhưng vẫn nạp vào cơ thể tới hơn 1.000 mg canxi/ngày do lo ngại về sự suy giảm mật độ xương sau mãn kinh, bạn có thể đang quá lạm dụng loại thực phẩm chức năng này rồi đó.

Cung cấp thừa canxi cho cơ thể làm tăng rất nhiều nguy cơ cho sức khỏe bao gồm sỏi thận, táo bón và các bệnh tim mạch. Những phụ nữ thông minh thường bảo vệ bộ xương bằng cách lựa chọn những thực phẩm giàu canxi như các loại rau lá xanh đậm và các sản phẩm từ sữa (kể cả sữa hạnh nhân hay sữa dừa bổ sung canxi). Ngoài ra, như đã đề cập ở trên, bạn nên duy trì các bài luyện tập sức đề kháng để tăng cường sức mạnh của xương.

Uống quá nhiều rượu vang

Liệu bạn có biết một cốc rượu chứa khoảng bao nhiêu rượu? Nhiều người không biết rằng, thể tích của một khẩu phần rượu là gần 120 ml (khoảng 4 oz). Điều đó có nghĩa là nhiều người trong chúng ta đã vô tình tiêu thụ nhiều hơn lượng khuyến cáo của Hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ là 1 cốc đồ uống có cồn/ngày để giảm nguy cơ đột quỵ và ung thư vú. Theo Kennedy, tiêu thụ rượu vang đỏ ở mức độ vừa phải không hoàn toàn có hại cho bạn, tuy nhiên đây không phải là loại đồ uống lành mạnh như nhiều phụ nữ vẫn nghĩ. Tương tự như vậy, thể tích 1 khẩu phần của bia là 355 ml (12 oz) và rượu mạnh là 44 ml (1.5 oz).

Coi đậu nành như một thực phẩm thần kỳ

Nhiều người nghĩ rằng đậu nành là một loại thực phẩm vô cùng kỳ diệu cho những phụ nữ ở độ tuổi mãn kinh. Đậu nành là một loại thực vật cực giàu protein và chất xơ và có chứa những hợp chất có cấu trúc tương tự như hormone estrogen trong cơ thể. Những thực phẩm chế biến từ đậu nành như đậu phụ, miso hay sữa đậu nành dường như mang lại những hiệu quả rất tốt cho sức khỏe.

Tuy nhiên, nhìn trên nhãn thực phẩm thấy những dòng chữ như “đậu nành” hay ”protein đậu nành” không đồng nghĩa với việc thực phẩm đó thực sự tốt. Những loại bột protein cũng như những sản phẩm từ đậu nành đã được chế biến có thành phần cô đặc hơn là đậu nành tự nhiên, và chúng có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của những phụ nữ đang gặp phải các vấn đề về tuyến giáp hay có tiền sử mắc ung thư vú.

Không có kế hoạch ăn uống khoa học trong một ngày

Trong nghiên cứu của Gibb, những phụ nữ ở độ tuổi mãn kinh mà theo dõi chặt chẽ lượng thực phẩm họ tiêu thụ hàng ngày – bằng cách viết vào sổ hoặc theo thói quen – sẽ giảm được nhiều cân hơn là những phụ nữ không theo dõi hàng ngày. Mục đích chính của việc theo dõi khẩu phần ăn hàng ngày là lên một kế hoạch về những thực phẩm bạn sẽ ăn trong ngày để không còn có cảm giác đói và cung cấp vừa đủ năng lượng cho cơ thể. Dành một chút thời gian để lên danh sách những thực phẩm trong một ngày sẽ giúp bạn ăn uống khoa học hơn và kiểm soát cân nặng hiệu quả hơn.

Ăn theo hứng thú

Giai đoạn chuyển tiếp sang mãn kinh thường gây khá nhiều xáo trộn về tâm lý, nhiều phụ nữ tự mình tìm đến niềm đam mê về ăn uống để tự trấn an bản thân. Chính thói quen này có thể tiếp tục duy trì vào giai đoạn hậu mãn kinh, dẫn đến tăng cân, giảm mức năng lượng nạp vào và gây bất ổn nhiều hơn về cảm xúc. Việc đầu tiên phải làm là hãy tự biết cách kiềm chế bản thân mình, hầu như mọi người đều ăn một cái gì đó mỗi khi cảm thấy căng thẳng. Tiếp theo, tìm kiếm những biện pháp khác cũng có thể giúp cơ thể được thư giãn. Tập thể dục, trò chuyện với bạn bè, tham gia hoạt động tình nguyện trong cộng đồng, ngồi thiền hay tập yoga, và làm việc với một chuyên gia trị liệu là những cách có thể giúp nâng cao sức khỏe tinh thần cho bạn.

Ăn quá thường xuyên – hay ăn không đủ bữa

Nhiều người thường mắc sai lầm trong việc thiết lập những nguyên tắc ăn uống về việc liệu phụ nữ thời kỳ mãn kinh nên ăn bao nhiêu bữa một ngày là hợp lý. Chuyên gia dinh dưỡng Kennedy khuyên một số người nên ăn thành nhiều bữa nhỏ trong ngày, trong khi những người khác nên trung thành với chế độ ăn cân bằng 3 bữa/ngày. Nguyên tắc quan trọng nhất bạn cần tuân theo đó là bạn nên duy trì chế độ ăn mỗi ngày tương tự như nhau để cơ thể hình thành thói quen và biết được lúc nào cảm thấy đói và cảm thấy đủ no sau khi ăn.

Quên uống nước

Liệu bạn đã nạp đủ khoảng 2 lít nước một ngày hay chưa? Nếu vẫn chưa, bạn có thể cảm thấy rằng nhu cầu cung cấp đường và muối của bạn cao hơn hẳn bình thường. Kennedy nói hầu hết phụ nữ không nhận ra rằng quá trình chuyển hóa và cung cấp nước cho cơ thể có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Do vậy, những phụ nữ không uống đủ nước thường có cảm giác thèm ăn vặt thay vì muốn uống, và điều này thường gây tổn hại khá nhiều đến mức năng lượng cũng như khả năng kiểm soát cân nặng.

ThS.BS Trần Thu Nguyệt – Viện Y học Ứng dụng Việt Nam

]]>