lũ lụt – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com Thông tin sức khỏe cho cộng đồng Wed, 08 Aug 2018 16:01:23 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.4 http://tapchisuckhoedoisong.com/wp-content/uploads/2018/07/cropped-Icon-browser-32x32.png lũ lụt – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com 32 32 Lũ lụt, cảnh giác với bệnh sốt do chuột cắn http://tapchisuckhoedoisong.com/lu-lut-canh-giac-voi-benh-sot-do-chuot-can-14691/ Wed, 08 Aug 2018 16:01:23 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/lu-lut-canh-giac-voi-benh-sot-do-chuot-can-14691/ [...]]]>

Trong và sau lũ lụt, môi trường sống bị ô nhiễm nặng và đảo lộn bất thường. Bên cạnh những bệnh do nhiễm khuẩn như: sốt xuất huyết, tiêu chảy, lỵ, đau mắt, nhiễm khuẩn da…, người dân còn có thể bị nhiễm một số bệnh do côn trùng hoặc động vật gây ra trong đó có bệnh do chuột cắn. Nhiều người sau khi bị chuột cắn coi thường nên khi phát bệnh cũng không nghĩ tới nguyên nhân này. Phát hiện, chữa trị bệnh do chuột cắn như thế nào? Mời bạn cùng tìm hiểu.

Sốt chuột cắn là bệnh do động vật truyền, lây sang người thông qua các vết cắn hoặc vết cào của động vật thuộc bộ gặm nhấm, nhất là chuột hoặc một số loài thú nuôi (như chó, mèo…). Dựa vào mầm bệnh, người ta phân biệt hai loại bệnh sốt do chuột cắn là Sodoku do xoắn khuẩn Spirillum minus và bệnh Haverhill do trực khuẩn Streptobacillus moniliformis gây ra.

Bệnh Sodoku

Theo tiếng Nhật Sochuột, dokunhiễm độc do xoắn khuẩn, Spirillum minus gây ra. Đây là xoắn khuẩn Gram âm có 2 – 3 vòng xoắn và không sinh sản ở môi trường nuôi cấy nhân tạo. Bệnh này thường gặp ở châu Á và một số nơi khác như châu Phi, châu Úc, châu Âu và châu Mỹ. Xoắn khuẩn Spirillum minus có ở cơ lưỡi của chuột nhắt, chuột nhà, chó, mèo khỏe mạnh. Bệnh lây trực tiếp cho người qua vết cắn hay vết cào hoặc gián tiếp thông qua tiếp xúc hoặc ăn những thức ăn bị nhiễm nước tiểu của chuột có nhiễm xoắn khuẩn.

Chuột cắn lây truyền bệnh sốt Sodoku.

Dấu hiệu phát hiện bệnh

Từ khi bị chuột cắn, thời kỳ ủ bệnh từ 5 ngày đến 4 tuần, rồi bệnh khởi phát đột ngột với các triệu chứng: sốt cao 39-40oC, rét run, đặc trưng bởi sốt gián đoạn từng cơn. Các cơn sốt tái đi tái lại sau những khoảng thời gian không sốt. Sự tái phát cơn sốt thường xuất hiện vài lần trong thời gian 1-3 tháng. Cùng với sốt, bệnh nhân bị ban sẩn ngứa, ban hoạt tử, các ban này có xu hướng nối liền với nhau, tập trung ở da đầu, mặt và thân trên. Tại vết cắn, hầu hết các trường hợp có thể trở thành một vùng sưng tấy, tím đỏ và hoại tử. Tuy nhiên cũng có trường hợp tổn thương da có thể tự khỏi. Trong thời gian mắc bệnh, bệnh nhân thường có biểu hiện đau cơ khớp, có thể phát triển thành viêm khớp. Một số bệnh nhân còn có các triệu chứng thần kinh như: đau đầu, ảo giác, tình trạng mê sảng dẫn đến hôn mê.

Bệnh được chẩn đoán nhờ phân lập được vi khuẩn trong máu, hạch lympho, vết cắn và các tổn thương da. Xoắn khuẩn Spirillum minus có thể phát hiện bởi kính hiển vi nền đen, nhuộm Giemsa, nhuộm Wright hay nhuộm bạc.

Biến chứng có thể xảy ra gồm: viêm nội tâm mạc, viêm màng não, nhồi máu, viêm gan, viêm màng phổi, viêm mào tinh hoàn, thiếu máu. Nếu không được điều trị,  tình trạng sốt có thể kéo dài dai dẳng 1-2 tháng và là nguyên nhân gây tử vong với tỉ đến 13%.

Bệnh sốt Haverhill

Bệnh sốt Haverhill phổ biến hơn bệnh Sodoku do Streptobacillus moniliformis gây bệnh. Nó là trực khuẩn gram âm, ưa khí, không di động, không có vỏ, là trực khuẩn đa hình thể: hình cầu, hình oval, hình thoi, hình gậy, cuộn thành hình khối. Trực khuẩn này được tìm thấy ở mũi hầu của chuột. Bệnh lây truyền cho người trực tiếp thông qua vết cắn hoặc cào của chuột hoặc gián tiếp thông qua thức ăn chưa được nấu chín hay nước uống bị nhiễm nước tiểu của chuột bị bệnh.

Dấu hiệu phát hiện bệnh

Thời gian ủ bệnh ngắn từ 3-10 ngày, sau đó phát bệnh đột ngột với hội chứng nhiễm trùng: sốt cao (39-40oC), rét run, đau đầu. Nếu trực khuẩn xâm nhập qua đường tiêu hóa, bệnh nhân sẽ có các triệu chứng như nôn hoặc buồn nôn. Xuất hiện đau cơ và khớp với đặc điểm đau di chuyển từ khớp này sang khớp khác. Trong suốt thời gian mắc bệnh, hội chứng nhiễm khuẩn xuất hiện dai dẳng, gián đoạn. Trên da có thể thấy các ban xuất huyết ở lòng bàn tay, chân, mũi. Khoảng 50% bệnh nhân có biểu hiện thấp khớp hoặc nhiễm trùng các khớp một cách không đối xứng, tập trung ở các khớp lớn. Sốt sẽ lui dần sau 3-5 ngày thậm chí khi không điều trị kháng sinh và các khớp viêm sẽ biến mất trong vòng từ 10 – 14 ngày.

Chẩn đoán bệnh nhờ cấy máu, dịch khớp, dịch rỉ từ vết thương thấy trực khuẩn, kết hợp với các triệu chứng lâm sàng nói trên.

Các biến chứng có thể gặp là: viêm nội tâm mạc, nhồi máu cơ tim, viêm màng ngoài tim, viêm phổi, viêm màng não, thiếu máu.

Phòng bệnh thế nào?

Do diễn biến của bệnh sốt chuột cắn nhanh và nguy hiểm nên việc phòng ngừa bệnh càng quan trọng. Có thể uống penicillin trong 3 ngày sau khi bị chuột cắn. Ngoài ra, cần thực hiện các biện pháp đồng bộ: tiêu diệt chuột; tránh chuột cắn khi tiếp xúc với chuột; đề phòng lây nhiễm bệnh qua đường tiêu hóa bằng việc thực hiện ăn chín, uống sôi.

BS. Phạm Văn Thân

]]>
Thương hàn, bệnh dễ mắc sau lũ lụt http://tapchisuckhoedoisong.com/thuong-han-benh-de-mac-sau-lu-lut-13977/ Sun, 05 Aug 2018 06:00:40 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/thuong-han-benh-de-mac-sau-lu-lut-13977/ [...]]]>

Một trong những bệnh lý nguy hiểm đó là bệnh thương hàn. Việc phát hiện bệnh sớm sẽ làm giảm các biến chứng, tỷ lệ tử vong mà còn góp phần hữu hiệu nhằm ngăn chặn việc phát sinh và lan tràn của các dòng vi khuẩn kháng kháng sinh.

Biểu hiện của bệnh thương hàn

Thương hàn là một bệnh cấp tính toàn thân lây truyền qua đường tiêu hóa, để lại bệnh cảnh não nề, có thể gây thành dịch. Tổ chức Y tế Thế giới đặt thương hàn vào loại bệnh truyền nhiễm quan trọng, bệnh lây lan nhiều nhất ở độ tuổi từ 5 – 19 tuổi. Người bị bệnh do ăn uống phải thức ăn, nước uống bị nhiễm khuẩn. Khi vi khuẩn gây bệnh xâm nhập cơ thể sẽ gây ra triệu chứng sốt, đau đầu, mệt mỏi, chán ăn, nhịp tim chậm, khoảng 25% có nốt hồng ban trên cơ thể. Người bệnh đau bụng, nôn, táo bón hoặc tiêu chảy, phân đen hoặc có máu. Bụng trướng, có dấu hiệu óc ách hố chậu phải. Tất cả mọi người đều có thể bị cảm nhiễm vi khuẩn gây bệnh thương hàn. Thời kỳ ủ bệnh phụ thuộc vào số lượng vi khuẩn xâm nhập, có thể từ vài ngày tới vài tháng, nhưng thông thường từ 1-3 tuần. Khi theo thức ăn vào đường tiêu hóa, vi khuẩn xuyên vào thành ruột, sau đó lan tỏa theo hệ thống bạch huyết. Từ đây chúng xâm nhập hệ thống hầu hết các cơ quan trong cơ thể. Vi khuẩn vào máu gây nhiễm khuẩn huyết rồi nhiễm khuẩn khu trú chủ yếu ở hạch lympho của ruột non. Tổn thương gây các mảng payer viêm và có thể bị loét nặng, nhất là sau 3 tuần bị bệnh. Vi khuẩn có thể đến phổi, túi mật, thận và hệ thần kinh trung ương. Nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ gây ra những biến chứng nguy hiểm như chảy máu ruột, thủng ruột do các vết viêm loét ở hạch payer hoặc bị rối loạn chức năng não và dễ gây ra tử vong.Vệ sinh môi trường sau lũ lụt để phòng ngừa bệnh thương hàn và các bệnh khác.

Vệ sinh môi trường sau lũ lụt để phòng ngừa bệnh thương hàn và các bệnh khác.

Thủ phạm gây bệnh

Thủ phạm gây ra bệnh thương hàn chính là vi khuẩn salmonella typhi. Salmonelleae thuộc họ Enterobacteriaceae với chỉ một dòng duy nhất là Salmonella và được lấy từ tên nhà khoa học người Mỹ, D.E. Salmon. Đây là trực khuẩn Gram (-), hiếu khí tùy nghi di động.

Salmonella xâm nhập cơ thể qua đường miệng và hầu hết là do ăn phải thức ăn bị nhiễm như thực phẩm, nguồn nước… Sau khi xuyên qua hàng rào acid dạ dày, vi khuẩn di động về phía ruột non và sinh sản ở đó, tiếp tục chui qua màng nhày vào thành ruột và đi vào máu. Vi khuẩn sẽ được chuyên chở bởi những tế bào bạch cầu ở gan, lách và tủy xương. Khi đó vi khuẩn sẽ sinh sôi nảy nở trong tế bào của những cơ quan này và quay lại dòng máu. Vi khuẩn xâm nhập vào túi mật, hệ thống ống mật và mô limpho trong ruột. Tại đây, chúng sinh sôi nảy nở với số lượng lớn. Bệnh thương hàn là do lây truyền qua đường ăn uống bởi nước hay thức ăn bị nhiễm. Bệnh nhân bị bệnh cấp tính có thể lây ra môi trường nước xung quanh qua phân, ở giai đoạn cấp các chất thải (phân) có chứa nồng độ vi khuẩn rất cao.

Một số bệnh nhân bị bệnh nhẹ, có thể họ không nhận biết được. Những người này về lâu dài có thể trở thành người lành mang trùng. Vi khuẩn thương hàn sinh sôi trong túi mật, ống mật hay trong gan và đi vào trong ruột, chúng có thể sống sót vài tuần trong nước hay chất thải khô. Những người mang trùng mạn tính này thường không có triệu chứng và là nguồn lây bệnh sốt thương hàn trong nhiều năm.

Điều trị thế nào?

Khi vi khuẩn Salmonella vào trong ruột, nó có thể được chẩn đoán bằng cách lấy phân đem đến phòng xét nghiệm để cấy. Một xét nghiệm khác là xét nghiệm Widal giúp phát hiện và lượng giá kháng thể của vi khuẩn thương hàn trong máu và trong nước tiểu.

Bệnh thương hàn được điều trị bằng kháng sinh nhằm tiêu diệt vi khuẩn Salmonella. Lựa chọn kháng sinh điều trị thương hàn phải là những thuốc kháng sinh đặc hiệu với Salmonella như ceftriaxone, ciprofroxaxine, pefloxaxine… các thuốc này có tính chất khuếch tán đến nhiều cơ quan trong cơ thể. Bên cạnh điều trị kháng sinh phải chú ý đến cân bằng điện giải, chế độ dinh dưỡng hợp lý (những trường hợp nhịn ăn khi có xuất huyết tiêu hóa nặng hoặc nghi ngờ thủng ruột), điều trị triệu chứng và các biến chứng kèm theo.

Trước khi sử dụng kháng sinh, tỉ lệ tử vong của bệnh là 10%. Tử vong xảy ra là do vi khuẩn thương hàn gây viêm phổi, xuất huyết tiêu hóa (chảy máu đường ruột) hay thủng ruột.

Lời khuyên của thầy thuốc

Để phòng bệnh thương hàn hiệu quả và kịp thời, cần thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo nguồn nước sinh hoạt, kiểm tra chặt chẽ các quy định xử lý chất thải. Cách ly bệnh nhân mắc bệnh thương hàn khi hết triệu chứng và kết quả phân lập vi khuẩn 3 lần cách nhau 24-48 giờ âm tính.

Trong vùng có nhiều người mắc bệnh, vùng bị lũ lụt ô nhiễm môi trường nặng cần được sát khuẩn bằng dung dịch chloramin B, vôi bột. Ở những nơi bệnh thương hàn thường xuyên xảy ra nên tiêm phòng bằng vắc-xin, tùy từng hiệu lực của từng loại vắc-xin có thể tiêm nhắc lại sau 2 đến 5 năm.

BS. Lê Thị Hương

]]>