điện giải – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com Thông tin sức khỏe cho cộng đồng Sun, 05 Aug 2018 05:07:13 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.4 http://tapchisuckhoedoisong.com/wp-content/uploads/2018/07/cropped-Icon-browser-32x32.png điện giải – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com 32 32 Nắng nóng và những tác động xấu đến tim mạch http://tapchisuckhoedoisong.com/nang-nong-va-nhung-tac-dong-xau-den-tim-mach-13505/ Sun, 05 Aug 2018 05:07:13 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/nang-nong-va-nhung-tac-dong-xau-den-tim-mach-13505/ [...]]]>

Tình trạng này có thể dẫn đến giảm huyết áp và làm cho tim đập nhanh hơn. Nếu đang có vấn đề về tim mạch, nhiệt độ cao có thể gây thêm gánh nặng cho tim và hệ tuần hoàn, do đó cần giữ mát và chăm sóc bản thân trong thời tiết nắng nóng.

Thời tiết nóng và các bệnh lý tim mạch liên quan

Đau thắt ngực: Nếu bị bệnh mạch vành, người bệnh sẽ bắt đầu cảm thấy đau thắt ngực tăng lên trong thời tiết nóng vì nhiệt độ tăng cao làm tăng khối lượng công việc lên tim và tăng nhu cầu về oxy của cơ thể, đặc biệt khi người bệnh tim hoạt động nhiều hơn trong thời tiết nóng.

Suy tim: Điều đặc biệt quan trọng là hãy giữ mát cơ thể khi bạn đang bị suy tim. Nếu được khuyến cáo hạn chế lượng nước uống hàng ngày do tình trạng suy tim, bạn nên trao đổi với bác sĩ của bạn về những cách khác để giữ mát cơ thể trong mùa hè.

 

Nắng nóng và những tác động xấu đến tim mạch

 

Đột quỵ nhiệt: Việc mất quá nhiều nước có thể làm tăng nhiệt độ cơ thể và có thể đe dọa tính mạng nếu không được điều trị. Các triệu chứng của đột quỵ nhiệt bao gồm đổ mồ hôi, da lạnh, chóng mặt, ngất xỉu, chuột rút cơ, phát ban nhiệt, phù nề ở mắt cá chân, thở nhanh nông, buồn nôn và nôn.

Đối tượng nguy cơ cao nhất trong thời tiết nóng?

Người cao tuổi và trẻ nhỏ có nhiều khó khăn trong việc điều chỉnh nhiệt độ cơ thể và do đó có nguy cơ cao hơn từ tình trạng nhiệt độ khắc nghiệt, nhất là trời nắng nóng dữ dội. Trong thời tiết nắng nóng đang diễn ra như hiện nay, phải đảm bảo người cao tuổi và trẻ nhỏ luôn được sinh hoạt trong môi trường mát mẻ và thoải mái.

Khuyến cáo cho bệnh nhân tim mạch trong thời tiết nóng

Với bệnh nhân tim mạch trên 50 tuổi hoặc thừa cân, cần phải có các biện pháp phòng ngừa đặc biệt trong điều kiện nhiệt độ cao. Một số loại thuốc điều trị bệnh tim như thuốc chẹn beta, thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn kênh calci và thuốc lợi tiểu làm giảm lượng natri có thể làm gia tăng phản ứng của cơ thể đối với nhiệt độ cao.

Giữ đủ nước cho cơ thể bằng cách uống nhiều nước hoặc các đồ uống không có đường. Tránh uống quá nhiều đồ uống có cồn hoặc caffein. Thức uống có chứa caffein có thể khiến người bệnh mất nhiều chất lỏng hơn qua đường tiểu.

Ăn các thức ăn mát, đặc biệt là rau củ và trái cây có hàm lượng nước cao. Mặc quần áo bằng vải cotton nhẹ, rộng rãi và thông thoáng.

Tránh ở ngoài trời vào thời điểm nắng nóng nhất. Tránh nỗ lực vận động thể chất quá mức cần thiết. Dù đang ở trong nhà hay ở bên ngoài, đi xe đạp với bạn bè, chạy bộ trong công viên hoặc chỉ đi dạo quanh khu phố, điều quan trọng là giữ an toàn cơ thể khi nhiệt độ tăng lên. Nên trao đổi và kiểm tra với bác sĩ tim mạch của mình trước khi bắt đầu tập thể dục.

Nắng nóng và những tác động xấu đến tim mạchBù đủ nước trước và trong khi tập thể dục để bổ sung kịp thời chất điện giải bị mất.

Lời khuyên khi tập luyện ngoài trời khi trời nóng

Tốt nhất là tránh ở ngoài trời từ 11 giờ trưa đến 3 giờ chiều vì mặt trời thường chiếu sáng mạnh nhất, chúng ta có nguy cơ mắc bệnh nhiệt liên quan cao hơn. Trường Y học thể dục thể thao Hoa Kỳ (American College of Sports Medicine) khuyến cáo hủy bỏ các cuộc thi và hoạt động ngoài trời liên tục và tất cả các hoạt động thể thao ngoài trời ở chỉ số nhiệt trên 32 độ C.

Nên tập thể dục với bạn bè bởi vì nó an toàn hơn và thú vị hơn khi có người ở bên cạnh bạn.

Ăn mặc phù hợp. Mặc quần áo nhẹ, sáng màu với các loại vải thoáng khí như bông hoặc vải tổng hợp làm giảm bớt mồ hôi. Đội mũ và dùng kính mát. Chọn những đôi giày thông thoáng và tìm những chiếc vớ giúp đẩy lùi mồ hôi.

Uống đủ nước: Trước khi bắt đầu tập luyện ngoài trời, hãy bôi kem chống nắng. Bù đủ nước trước và trong khi tập thể dục và thay thế đủ chất điện giải bị mất, chẳng hạn như natri, kali và magiê với thức ăn hoặc đồ uống thể thao, thường bù 200ml nước/giờ. Tránh các đồ uống chứa caffein hoặc có cồn.

Thường xuyên nghỉ: Tìm một bóng mát hoặc một nơi mát mẻ, dừng lại trong vài phút, uống nước và bắt đầu tập lại.

Làm quen với nhiệt độ nóng: Nếu tập thể dục trong thời tiết nóng, điều quan trọng là phải thích nghi với sức nóng trong khoảng 1 tuần trước khi bắt đầu tập thể dục cường độ cao. Điều này cho phép cơ thể bạn dần dần thích ứng với sức nóng trong môi trường mới.

TS.BS. Lê Thanh Hải

]]>
Bù nước và điện giải trong điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ em http://tapchisuckhoedoisong.com/bu-nuoc-va-dien-giai-trong-dieu-tri-tieu-chay-cap-o-tre-em-13311/ Thu, 02 Aug 2018 14:29:04 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/bu-nuoc-va-dien-giai-trong-dieu-tri-tieu-chay-cap-o-tre-em-13311/ [...]]]>

Thường trẻ đi đại tiện trên 3 lần trong ngày và tính chất phân thay đổi như phân loãng, có nhiều nước là dấu hiệu của tiêu chảy cấp và diễn biến dưới 5 ngày, nếu trên 2 tuần là tiêu chảy kéo dài. Vào mùa hè nắng nóng, trẻ rất dễ bị tiêu chảy cấp, do đó cần quan tâm đến bệnh lý này.

Điều trị mất nước và điện giải

Việc điều trị mất nước và điện giải nhằm mục đích bù nước và điện giải do bệnh gây ra gọi là điều trị phục hồi, cung cấp nước và điện giải trong khi bệnh nhi được điều trị gọi là điều trị duy trì; ngoài ra một số trường hợp có thể cung cấp nước và điện giải cho cơ thể trong điều kiện sinh lý bình thường. Thực tế đưa nước và điện giải vào cơ thể có thể thực hiện bằng đường uống, tiêm truyền qua tĩnh mạch và dùng ống thông mũi-dạ dày.

Dung dịch sử dụng để uống có thể dùng gói bột ORS (oral rehydration salts) có sẵn của Tổ chức Y tế Thế giới để pha dung dịch oresol (oral rehydration solution) hoặc dùng dung dịch tự pha chế theo công thức. Một gói ORS pha với 1 lít nước có clorua natri 3,5g; bicarbonat natri 2,5g; clorua kali 1,5g; glucose 20g. Nếu không có sẵn gói bột ORS, có thể dùng dung dịch tự pha chế gồm 1 thìa cà phê muối (3,5g), 8 thìa cà phê đường (40g) pha vào 1 lít nước hoặc có thể dùng bột gạo nấu thành nước cháo gồm bột gạo 50g (5 thìa canh), muối 3,5g (1 thìa cà phê), 1 lít nước và đun sôi 2 – 5 phút; để có thêm kali, cho thêm vào nước cháo vài thìa nước quả, với 50g bột gạo có thể cho được 175 kcal.

Bù nước và điện giải  trong điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ emDung dịch sử dụng để uống có thể dùng gói bột ORS

Dung dịch sử dụng để tiêm truyền thường dùng là huyết thanh NaCl 0,9%, huyết thanh glucose 5%, lactat hoặc acetat Ringer, dung dịch Darrow.

Trên lâm sàng, sau khi đánh giá tình trạng mất nước, tùy theo mức độ mà bù nước và điện giải. Trường hợp mất nước nhẹ, cho uống dung dịch oresol với liều lượng 50ml/kg cân nặng trong 4 giờ. Nếu mất nước vừa, cho uống dung dịch oresol với liều lượng 10ml/kg cân nặng trong 4 giờ. Khi bệnh nhi nôn nhiều, vẫn cho trẻ uống dung dịch oresol nhưng uống từng thìa. Trường hợp trẻ hôn mê, tiêm truyền tĩnh mạch các dung dịch lactat Ringer với liều lượng 30ml/kg cân nặng mỗi giờ, sau đó đánh giá tình trạng mất nước và tiếp tục tiêm truyền tĩnh mạch dung dịch lactat Ringer với liều lượng 70ml/kg cân nặng mỗi 5 giờ; đối với trẻ trên 1 tuổi có thể tiêm truyền nhanh hơn; tiếp tục đánh giá lại các triệu chứng mất nước, nếu bệnh nhi đỡ cho uống dung dịch oresol với liều lượng 20ml/kg cân nặng mỗi giờ. Nếu không có dung dịch lactat Ringer, có thể dùng dung dịch acetat Ringer hoặc dung dịch muối đẳng trương NaCl 0,9%. Trường hợp không tiêm truyền tĩnh mạch được, bù nước và điện giải qua ống thông mũi-dạ dày với liều lượng 20ml/kg cân nặng mỗi giờ, tổng liều là 120ml/kg cân nặng.

Lưu ý kháng sinh chỉ được sử dụng trong các trường hợp trẻ bị tiêu chảy cấp có nhiễm khuẩn do mắc các bệnh tả, lỵ trực trùng, lỵ amíp cấp…

Dinh dưỡng của bệnh nhi bị tiêu chảy cấp

Ngoài bù nước và điện giải là điều trị quan trọng đã được nêu ở trên, việc dinh dưỡng của bệnh nhi bị tiêu chảy cấp cũng cần quan tâm. Khi mắc bệnh, trẻ bị thiếu chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể do bị tiêu chảy, nôn, biếng ăn; vì vậy nếu cho trẻ kiêng khem là vấn đề không hợp lý. Thực tế ngay trong thời kỳ cấp tính của bệnh tiêu chảy, ruột vẫn giữ được chức năng hấp thu các chất dinh dưỡng như chất mỡ ruột có thể hấp thụ được 60% so với bình thường. Lưu ý ngay sau khi hồi phục được nước và điện giải, cần cho trẻ bú và không cần bắt trẻ phải nhịn ăn. Đối với những trẻ được nuôi dưỡng bằng sữa bò, sau khi đã bù nước và điện giải nên cho trẻ bú sữa pha loãng hơn lúc trẻ chưa bị mắc bệnh hoặc có thể cho bú sữa pha với ORS với liều lượng 1/3 sữa pha với 2/3 ORS. Sau đó dần dần cho trẻ bú hay ăn theo chế độ bình thường. Khi trẻ khỏi bệnh, mỗi ngày cho ăn thêm một bữa, ăn trong một tuần để nhanh lấy lại sức. Tránh cho trẻ ăn nước cháo kéo dài hoặc kiêng khem không cho ăn các thức ăn có chất dinh dưỡng cao vì trong điều trị tiêu chảy cấp không thể để trẻ bị thiếu hụt chất dinh dưỡng.

Điều trị tiêu chảy trong một số trường hợp đặc biệt

Đối với trẻ bị tiêu chảy và suy dinh dưỡng: Một số trẻ suy dinh dưỡng thường bị tiêu chảy nên việc điều trị sẽ khó khăn hơn trẻ có tình trạng dinh dưỡng tốt. Trước tiên phải cần bù nước và điện giải như trên nhưng giai đoạn duy trì kéo dài hơn, vì vậy phải dùng ORS lâu hơn. Trẻ suy dinh dưỡng thể phù Kwashiokor dễ bị phù tăng lên và gây suy tim. Trẻ cần được theo dõi chặt chẽ và cho ăn lại khẩu phần ăn bình thường càng sớm càng tốt.

Đối với trẻ bị tiêu chảy và sốt cao, co giật: phải tìm ổ nhiễm khuẩn trong cơ thể tại tai, phổi, tiết niệu… Nếu trẻ sốt cao thì điều trị như các trường hợp bị sốt cao bằng thuốc hạ nhiệt, dùng thuốc an thần để đề phòng co giật.

Bù nước và điện giải  trong điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ emNên cho trẻ tiếp tục bú sữa mẹ đến 2 tuổi vì sữa mẹ sạch, không bị nhiễm khuẩn

Điều cần quan tâm

Hiện nay nhờ phương pháp và kỹ thuật hiện đại nên việc điều trị bệnh tiêu chảy, đặc biệt là tiêu chảy cấp ở trẻ em khá hiệu quả; do đó tỉ lệ tử vong đã giảm đáng kể. Tuy vậy, công tác phòng bệnh cần phải được quan tâm. Việc nuôi con bằng sữa mẹ bằng cách cho trẻ bú ngay sau khi sinh được vài giờ, tối thiểu từ 4 – 6 tháng đầu cần nuôi con bằng sữa mẹ; từ tháng thứ 6 cho ăn thức ăn bổ sung. Nên cho trẻ tiếp tục bú sữa mẹ đến 2 tuổi vì sữa mẹ sạch, không bị nhiễm khuẩn, có nhiều yếu tố diệt khuẩn như tế bào bạch cầu, immunoglobin, lactoferin, lysozym. Vì vậy, sữa mẹ là thức ăn quý có yếu tố phòng bệnh tiêu chảy rất tốt. Nếu không đủ sữa mẹ, có thể cho trẻ ăn thêm sữa bò và nên dùng thìa thay thế cho bình sữa với núm vú cao su. Đồng thời cần cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho trẻ, ngoài sữa mẹ thì từ tháng thứ 6 nên cho trẻ ăn các loại thức ăn giàu chất đạm nhất là đạm động vật; giàu năng tượng như mỡ, dầu; nhiều vitamin A, B1, B6, muối khoáng, rau quả…; từ 1 tuổi trở lên cho ăn thêm cháo, cơm, rau, cá, thịt…; thức ăn phải tươi, không bị nhiễm khuẩn, được nấu chín kỹ và nên ăn nóng. Ngoài ra, cần cho trẻ uống nước tinh khiết, giữ gìn vệ sinh môi trường nơi trẻ sinh sống, giáo dục trẻ giữ vệ sinh cá nhân, không uống nước lã, không ăn quả xanh, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh… để phòng bệnh tiêu chảy hiệu quả.

BS. NGUYỄN HOÀNG ANH

]]>
Hệ lụy khi thiếu nước và chất điện giải http://tapchisuckhoedoisong.com/he-luy-khi-thieu-nuoc-va-chat-dien-giai-4453/ Thu, 19 Jul 2018 11:56:59 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/he-luy-khi-thieu-nuoc-va-chat-dien-giai-4453/ [...]]]>

Trên thực tế, 2/3 cơ thể của chúng ta là nước. Mất nước và điện giải là nguy cơ chính dẫn đến hàng loạt hệ lụy không tốt cho sức khỏe, dù chỉ cần sau một ngày không uống đủ nước. Do đó, vai trò quan trọng của nước và các chất điện giải (gồm Na, K và Cl…) đối với cơ thể là không thể phủ nhận được.

Vai trò của nước và chất điện giải trong cơ thể

Nước cung cấp, vận chuyển và là dung môi hòa tan các chất dinh dưỡng cần thiết cho tế bào, như các khoáng chất, glucozo, vitamin… giúp duy trì sự sống cho cơ thể.

Nước đóng vai trò cùng với gan, thận loại bỏ các độc tố mà các tế bào loại bỏ thông qua đường nước tiểu và phân.

Nước giúp cân bằng nhiệt độ giữa cơ thể và môi trường nhờ cơ chế giải phóng nhiệt khi nhiệt độ môi trường cao hơn nhiệt độ cơ thể và sự đổ mồ hôi, bay trên bề mặt da trong trường hợp ngược lại giúp làm mát cơ thể.

Nước giúp giảm ma sát, là chất bôi trơn hiệu quả quanh các xương khớp.

Cùng với vai trò của nước, cũng cần nhắc đến luôn các chất điện giải, gồm Na, K (potassium) và Cl (chloride) là các chất cần thiết trong khẩu phần ăn. Na có vai trò điều hòa áp trong hệ thống tim mạch, K có vai trò vận chuyển xung động thần kinh và duy trì huyết áp bình thường. Cl cùng với Na, K giúp duy trì cân bằng nước, pH máu và thành phần dịch vị (HCl).

Hệ lụy khi thiếu nước và chất điện giảiCác loại rau xanh, cà chua, ớt đỏ giúp cung cấp một số chất điện giải cần thiết trong cơ thể.

Biểu hiện và những hệ lụy nghiêm trọng khi cơ thể mất nước và chất điện giải

Chúng ta đã biết vai trò chính của các chất điện giải đối với cơ thể, nhưng khi nào cơ thể dễ bị rối loạn những chất này và những nguy cơ cụ thể nào sẽ xảy đến? K có nhiều trong hoa quả tươi, rau như: chuối, cam, đào, dưa hấu, rau bina, bí đỏ, khoai tây, khoai lang, cà chua… Thiếu K trong những trường hợp nôn nhiều, bệnh tiêu hóa mạn… gây rối loạn nhịp tim. Na có nhiều trong thức ăn chế biến sẵn, thức ăn nguồn gốc động vật. Cũng có thể bị thiếu Na do tiêu chảy, nôn, ra quá nhiều mồ hôi…, nhưng ít gặp. Chủ yếu là nguy cơ tiêu thụ quá nhiều Na (do ăn mặn nhiều muối, gây bệnh tăng huyết áp). Khẩu phần có K cao và Na thấp thường dẫn tới huyết áp thấp. Cl có trong muối ăn, nước chấm. Thiếu Cl khi nôn nhiều, ra mồ hôi nhiều liên tục, viêm đường tiêu hóa mạn tính, suy thận. Cl máu cao khi mất nước, thiếu nước.

Hãy cùng điểm qua các dấu hiệu điển hình của mất nước và chất điện giải dưới đây để lên kế hoạch bù nước cũng như các chất điện giải kịp thời cho cơ thể: nhức đầu, nước tiểu màu vàng đậm, táo bón, chóng mặt, tăng nhịp tim, da khô.

Mất nước, mất cân bằng Na, K và Cl có liên quan đến rối loạn dẫn truyền các tín hiệu của não. Sự mất cân bằng hóa học có thể gây nhịp tim bất thường, co giật và rối loạn cảm giác. Cuối cùng, có thể bị các vấn đề về sức khỏe trầm trọng, mất ý thức, giảm thể tích máu và sốc.

Lời khuyên của thầy thuốc

Chúng ta đang sống trong mùa khí hậu nóng bức, rất dễ bị thiếu nước và điện giải qua mồ hôi, hãy quan tâm để đảm bảo cung cấp đầy đủ nước và các chất điện giải ở mọi lứa tuổi. Theo khuyến cáo của Viện Dinh dưỡng:

Nhu cầu nước của trẻ vị thành niên: 40ml/kg cân nặng; Từ 19 – 30 tuổi hoạt động thể lực nặng: 40ml/kg; Từ 19- 55 tuổi hoạt động thể lực trung bình: 35ml/kg; Người trên 55 tuổi: 30ml/kg.

Tuy nhiên không phải đợi đến lúc khát mới uống; nên uống nhiều lần, ít một, uống chậm. Trong những trường hợp đặc biệt như thời tiết nóng bức, ra nhiều mồ hôi cần uống nhiều nước hơn. Trong tiêu chảy ngoài uống nhiều nước cần truyền thêm dịch.

BS. Ngô Mỹ Hà

]]>