Con tôi 4 tuổi. Bé bị sốt nhẹ, biếng ăn 2 ngày thì ở lòng bàn tay và bàn chân rải rác mấy mụn nước. Không biết đó có phải bệnh tay – chân – miệng hay thủy đậu? Xin bác sĩ tư vấn cách chăm sóc và phòng ngừa bệnh chân – tay – miệng?
Nguyễn Văn Định ([email protected])
Bệnh tay – chân – miệng và bệnh thủy đậu đều là bệnh do virut gây ra nhưng chủng loại virut khác nhau. Bệnh thủy đậu hay gặp vào mùa đông – xuân, còn bệnh tay – chân – miệng hay gặp vào mùa hè. Tuy nhiên, hai bệnh này vẫn xảy ra rải rác quanh năm. Triệu chứng đầu tiên thường là sốt nhẹ, biếng ăn, mệt mỏi và có viêm long đường hô hấp. Chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm máu tìm chủng virut gây bệnh, kết hợp thăm khám lâm sàng. Nếu bệnh tay – chân – miệng sau sốt 1-2 ngày trẻ bắt đầu đau miệng. Khám họng trẻ có thể phát hiện các chấm đỏ nhỏ, sau đó biến thành các bọng nước và thường tiến triển đến loét. Các tổn thương này có thể thấy ở lưỡi, nướu và bên trong má. Ban xuất hiện trong vòng 1 – 2 ngày với các tổn thương phẳng trên da hoặc có thể gồ lên, màu đỏ và một số hình thành bọng nước. Ban này không ngứa (đây là đặc điểm khác với ban thủy đậu có ngứa) thường khu trú ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân. Vì ban điển hình thường xuất hiện ở các vị trí tay, chân, miệng nên bệnh có tên bệnh tay – chân – miệng. Tuy nhiên, ban có thể xuất hiện ở mông. Một số trường hợp, ban chỉ xuất hiện ở miệng mà không thấy ở các vị trí khác.
Cho tới nay, chưa có thuốc đặc trị cho loại bệnh này nên phương pháp chủ yếu là chăm sóc dinh dưỡng và theo dõi diễn biến của bệnh. Dùng thuốc hạ sốt, giảm đau nếu sốt cao trên 380C. Tuyệt đối không được chọc vỡ các bọng nước trên da. Tại các vị trí bị thương tổn ngoài da, bôi các dung dịch sát khuẩn để tránh bội nhiễm. Bệnh nhân cần được ăn đủ dinh dưỡng, ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu; Vệ sinh miệng thường xuyên bằng các dung dịch súc họng. Hiện tại vẫn chưa có vắc-xin phòng bệnh tay – chân – miệng nên biện pháp hữu hiệu nhất để phòng ngừa là hạn chế tiếp xúc với người bệnh. Khi trẻ bị bệnh nên cho nghỉ học để tránh lây cho trẻ khác. Trường hợp của bé, chị nên đưa đi khám tại cơ sở y tế để được tư vấn điều trị đúng với giai đoạn bệnh.
BS. Vũ Hồng Ngọc
Con tôi được 10 tháng tuổi. Thời gian vừa rồi cháu bị ốm nên chưa tiêm phòng bệnh sởi. Trong xóm nhà tôi mới có một cháu mắc sởi nên tôi lo lắng vì bệnh này rất dễ lây. Xin bác sĩ cho biết biểu hiện của bệnh sởi và cách chăm sóc như thế nào?
Nông Thị Mai (Bắc Kạn)
Mặc dù là bệnh lành tính nhưng nếu không được điều trị và chăm sóc đúng cách, bệnh sởi có thể gây nhiều biến chứng. Dấu hiệu đầu tiên của bệnh sởi thường là sốt nhẹ hoặc sốt cao 39,5oC – 40oC, có thể có sốt cao co giật, kèm mệt mỏi, nhức đầu, đau cơ đau khớp. Ban xuất hiện đầu tiên ở sau tai, sau đó lan dần lên 2 bên má, cổ, ngực, bụng và phần chi trên trong vòng 24 giờ. Sau đó lan xuống lưng, bụng, 2 tay và sau cùng là 2 chân từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 3 của bệnh. Phát ban kéo dài vài ngày sau đó mất dần.
Bệnh sởi có thể gây ra nhiều biến chứng trong hoặc sau khi mắc bệnh sởi như: Viêm tai giữa, viêm thanh quản, viêm phổi, xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm kết mạc mắt, viêm cơ tim, viêm loét niêm mạc má, miệng;…
Do đó khi trẻ có biểu hiện mắc bệnh sởi cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để khám và điều trị sớm. Phần lớn bệnh nhân sởi trong trường hợp nhẹ, chưa có biến chứng thường được hướng dẫn điều trị và chăm sóc tại nhà như sau: Theo dõi nhiệt độ, nhỏ mắt, nhỏ mũi bằng nước muối sinh lý, giữ vệ sinh cơ thể trẻ, lau người cho trẻ hàng ngày bằng nước ấm, cho trẻ ăn uống đủ chất, thức ăn dễ tiêu,… Khi chăm sóc trẻ bệnh cần chú ý các dấu hiệu nặng lên như: Sốt cao, ho nhiều, tiêu chảy nhiều, ban sởi lặn hết mà vẫn còn sốt,… khi đó cần đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế để điều trị kịp thời.
Bác sĩ Nguyễn Văn An
Viêm phổi là một trong những nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất cho trẻ em trên thế giới, đặc biệt là trẻ em các nước nghèo và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vào mùa Đông Xuân khi thời tiết còn đang lạnh, số lượng bệnh nhi nhập viện vì viêm phổi tăng cao. Vậy đối với những trẻ này cần được điều trị và chăm sóc như thế nào?
Viêm phổi là tình trạng nhiễm trùng nhu mô phổi, gây ra chứng ho, sốt và khó thở. Đây là một bệnh lý nặng, đặc biệt là ở trẻ em. Viêm phổi có thể gây ra bởi vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng. Các tác nhân gây viêm phổi thay đổi theo lứa tuổi, cụ thể như sau: Ở trẻ em trên 5 tuổi viêm phổi do vi khuẩn là thường gặp hơn cả. Ở trẻ nhỏ và trẻ dưới 5 tuổi, viêm phổi do virus thường gặp nhiều hơn.
Các triệu chứng phổ biến bao gồm: Ho, sốt, thở nhanh hơn bình thường, khó thở hoặc đau khi hít vào. Đối với trẻ nhỏ rối loạn ăn uống, biếng ăn là hay gặp.
Cách theo dõi nhịp thở: Bạn hãy đề nghị bác sĩ hướng dẫn bạn cách đếm nhịp thở cho con. Cách làm như sau: Hãy để con bạn ngủ yên, bạn đếm khi trẻ không sốt hoặc chỉ sốt nhẹ (dưới 38 độ), kéo áo con lên quan sát bụng và ngực con. Mỗi lần bụng trẻ nhô lên hụp xuống tính là 1 nhịp thở, bạn phải đếm đúng trong vòng 1 phút.
Gọi là thở nhanh khi: Thở trên 60 lần trở lên với trẻ dưới 2 tháng; trên 50 lần với trẻ 2- 12 tháng; trên 40 lần với trẻ 1-5 tuổi; trên 20 lần trở với trẻ từ 5 tuổi trở lên; khi thấy trẻ thở nhanh bạn phải đếm lại 2-3 lần cho chắc chắn.
Không phải tất cả trẻ con bị viêm phổi đều có triệu chứng giống nhau. Nhưng nếu đứa trẻ có tình trạng giống như nói ở trên và có cả 2 triệu chứng là ho và sốt thì có khả năng trẻ bị viêm phổi.
Khám phổi cho bệnh nhi.
Viêm phổi là một bệnh nặng và có thể gây tử vong, do đó nếu bạn nghĩ con bạn có khả năng viêm phổi hãy đưa tới gặp bác sĩ nhi khoa ngay lập tức. Hãy gọi xe cấp cứu để được hỗ trợ kịp thời nếu con có một trong các triệu chứng sau: Ngưng thở, da xanh tái hoặc nhợt nhạt, rất khó thở, thở rên, trông trẻ có vẻ rất mệt mỏi và rất gắng sức mới thở được.
Việc điều trị sẽ phụ thuộc vào độ tuổi của trẻ, mức độ nặng của bệnh và tác nhân gây viêm phổi là virus hay vi khuẩn. Đối với những trẻ bệnh rất nặng hoặc tuổi nhỏ khi bị viêm phổi thì phải nhập viện điều trị.
Cần nhập viện khi: Tất cả trẻ dưới 3 tháng có biểu hiện viêm phổi. Trẻ trên 3 tháng viêm phổi và sốt cao trên 38,5 độ C. Suy hô hấp mức độ trung bình đến nặng (nhịp thở trung bình trên 70 lần ở trẻ dưới 1 tuổi, trên 50 lần với trẻ lớn, co lõm lồng ngực, khó thở nặng, thở rên, cánh mũi phập phồng, ngưng thở), tím tái, li bì, trẻ bỏ bú, mất nước (mắt trũng, tiểu ít)…
Hầu hết trẻ em bị viêm phổi do vi khuẩn sẽ bắt đầu cảm thấy tốt hơn sau 2-3 ngày kể từ khi được điều trị bằng kháng sinh. Tuy nhiên trẻ có thể sẽ vẫn cảm thấy mệt và ho vài tuần sau đó, có khi cả tháng sau khi được điều trị. Do vậy, việc chăm sóc cho trẻ tại nhà tốt nhất là hãy cố gắng giữ cho trẻ được thoải mái nhất có thể và chắc chắn rằng trẻ được nghỉ ngơi nhiều. Bạn nên khuyến khích trẻ uống nhiều nước. Đối với nhũ nhi và trẻ nhỏ, bạn nên cho trẻ từng lượng nhỏ nước uống chứ không cần quá nhiều cùng một lúc.
Dinh dưỡng, cung cấp đủ nước cho bé thông qua sữa, nước uống trực tiếp, cháo, soup… Theo dõi tình trạng đi tiểu của bé để xem cung cấp nước có đủ không. Nếu bé tiểu ít, nước tiểu vàng có thể là do cung cấp thiếu nước.
Vệ sinh mũi: Thường các trẻ viêm phổi cũng có viêm hô hấp trên kèm theo có thể vệ sinh mũi cho trẻ bằng nước muối sinh lý, hoặc dạng xịt phun sương, lấy nhầy mũi bằng bấc sâu kèn.
Giảm ho an toàn: Không cho con bạn uống các thuốc có tác dụng giảm ho. Những thuốc này thường là không hiệu quả và có thể làm trẻ nặng hơn do các tác dụng không mong muốn của thuốc. Chúng ta phải hiểu rằng, ho là phản xạ tự nhiên để bảo vệ đường hô hấp của cơ thể. Ho giúp tống đờm và vi khuẩn ra ngoài cơ thể, giúp làm sạch đường hô hấp để bệnh nhanh khỏi hơn. Tất cả những nỗ lực bằng mọi cách để giảm ho cho trẻ sẽ gây hại hơn cho trẻ. Chỉ một số trường hợp hãn hữu mới cần thuốc giảm ho, điều này sẽ do bác sĩ quyết định.
Làm ẩm không khí trong phòng hỗ trợ niêm mạc hô hấp, tránh nằm máy lạnh ở nhiệt độ quá thấp.
Hãy gọi cho bác sĩ của bạn nếu con bạn không tốt hơn sau 2 ngày điều trị, có thể phải điều chỉnh cách điều trị. Dấu hiệu chỉ điểm trẻ tốt hơn (đáp ứng với thuốc) thường là hết sốt, thở bớt mệt, ăn khá hơn.
Nếu viêm phổi điều trị trễ hoặc không đúng cách, hoặc vi khuẩn độc lực quá mạnh có thể gây ra các biến chứng. Một khi biến chứng xảy ra thì điều trị phức tạp và nguy cơ tử vong cao. Các biến chứng có thể xảy ra như tràn dịch, tràn mủ, tràn khí khoang màng phổi; viêm phổi hoại tử, ápxe phổi; kén khí phổi; hạ Natri máu; suy hô hấp và tử vong.
Rửa tay con bạn thường xuyên với xà bông và nước, đó là cách tốt nhất để phòng ngừa sự lây lan của nhiễm khuẩn. Bạn cũng có thể dùng cồn rửa tay để thay thế nhưng phải đảm bảo rửa hết cả bàn tay.
Có vài loại vaccine có thể giúp con bạn ngừa được viêm phổi dựa vào tác nhân gây bệnh:
Tiêm ngừa phế cầu: Phế cầu là tác nhân gây viêm phổi hàng đầu tại cộng đồng, phế cầu còn gây viêm tai giữa, viêm màng não. Phế cầu có thể tiêm sớm nhất và lúc 2 tháng tuổi.
Tiêm ngừa Hib, ho gà: 2 vi khuẩn này đã được tích hợp trong trong mũi tiêm hỗn hợp (5 trong 1, 6 trong 1)
Sởi: Lúc 9 tháng và 18 tháng, hoặc mũi 3 trong 1: sởi – quai bị – rubell, hoặc mũi 2 trong 1: sởi- rubella. Vaccin 2 trong 1 và 3 trong 1 này tiêm khi trẻ đủ 12 tháng.
Cúm: Tiêm cho trẻ sau 6 tháng tuổi.Trẻ dưới 9 tuổi: Tiêm 2 liều cách nhau tối thiểu 4 tuần. Trẻ từ 9 tuổi trở lên: Tiêm 1 liều. Tiêm nhắc lại mỗi năm, vì virus cúm thay đổi kháng khuyên hàng năm.
Các biện pháp khác: Có những nghiên cứu cho thấy việc bổ sung kẽm có thể ngừa được nhiễm trùng hô hấp, hãy hỏi bác sĩ nếu cần thiết bác sĩ sẽ kê đơn và hướng dẫn cho bạn cách dùng.
Tránh khói thuốc lá: Đường thở của trẻ sẽ trở nên yếu ớt do tác động của khói thuốc lá, vì vậy trẻ dễ bị viêm phổi hơn trẻ khác.
Cách li trẻ bệnh, không tiếp xúc với người đang có biểu hiện viêm hô hấp, rửa tay người chăm sóc, lau chùi các bề mặt thường xuyên. Dạy trẻ cách che miệng khi ho.
BS.Trần Văn Công
Rôm là những mụn nước trong, kích thước nhỏ, mọc riêng rẽ từng mụn, khiến trẻ có cảm giác ngứa ngáy, khó chịu ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ. Trẻ ăn kém hơn, giấc ngủ không sâu làm cho năng lượng đưa vào giảm. Trẻ quấy khóc, càng làm mất thêm năng lượng, dẫn đến sụt cân nhanh chóng. Khi cơ thể không khỏe mạnh, sức đề kháng giảm thì khả năng trẻ mắc bệnh càng cao hơn như bị rối loạn tiêu hóa, bệnh tay – chân – miệng, sốt vi rút… và sẽ phát triển kém hơn so với những trẻ khỏe mạnh khác. Nếu rôm sẩy không được vệ sinh và xử lý đúng cách sẽ phát triển thành mụn nhọt, đầu đinh. Thực tế cho thấy, nhiều bà mẹ lo lắng khi con bị rôm đã nóng vội tìm mua thuốc bôi, tắm cho trẻ mà không tìm hiểu kỹ gây nên những tình trạng nặng nề hơn về sức khỏe như dị ứng da.
Phấn rôm: Phấn rôm dùng cho trẻ có thành phần chính là bột talc, muối canxi, muối kẽm, được sản xuất dưới dạng bột mịn, có khả năng thấm hút cao. Khi sử dụng phấn rôm, cha mẹ chú ý xoa phấn rôm nhẹ nhàng lên da sau khi tắm và lau khô cho trẻ; không sử dụng phấn rôm tại các vùng gần mắt, mặt, các vùng kín như âm hộ của trẻ gái; tránh tình trạng phấn bay vào mắt, mũi, miệng trẻ gây các bệnh liên quan đến đường hô hấp; bay vào các vùng kín có thể gây ung thư. Trước khi sử dụng phấn rôm, bạn nên thoa một lớp mỏng lên da của trẻ, theo dõi trong một ngày xem có bị dị ứng không, nếu có hiện tượng mẩn ngứa hay nổi đỏ thì không nên dùng sản phẩm đó nữa.
Thường xuyên tắm rửa sạch sẽ cho trẻ.
Kem chống hăm: Ở một số trẻ do thời gian đóng bỉm lâu, dễ bị mẩn ngứa rôm sẩy… cha mẹ có thể sử dụng một số loại kem chống hăm có corticoid nhẹ giúp kháng viêm, kháng khuẩn, phòng ngừa và giảm nhanh chứng viêm da do đóng bỉm, thúc đẩy quá trình làm lành da, làm thành một hàng rào bảo vệ chống lại các tác nhân gây bệnh có thể là nguyên nhân của tình trạng viêm nhiễm. Tuy nhiên, không nên lạm dụng thuốc khi không có chỉ định của bác sỹ vì có thể gây dị ứng và một số tác dụng phụ không mong muốn cho cơ thể trẻ. Bên cạnh đó, cũng không nên bôi các loại thuốc mỡ lên da trẻ vì có thể làm cho lỗ chân lông thêm bít, khó thoát mồ hôi và gây kích ứng da của trẻ.
Cồn: Ngoài ra, khi da trẻ xuất hiện các nốt mụn to, mụn mủ, cha mẹ có thể dùng một số loại cồn có chứa iod hữu cơ để bôi như: betadin, povidone…
Để tránh rôm sảy cho trẻ và ngay cả khi trẻ đã bị rôm sảy, gia đình nên thường xuyên tắm rửa sạch sẽ cho trẻ, giữ da sạch sẽ, để tránh làm bít các lỗ chân lông. Sau khi ra mồ hôi, cố gắng lau người cho trẻ. Đặc biệt là sau khi ngủ một giờ, mồ hôi ra nhiều, các bậc cha mẹ cần chú ý thay quần áo lót cho trẻ. Quần áo mặc cho trẻ vào mùa hè cũng phải chọn loại vải phù hợp, thấm mồ hôi… sẽ mang lại cảm giác mát mẻ, thoải mái, phòng tránh được rôm sảy. Ngoài ra có thể cho trẻ nghịch nước; dùng gối nước, chiếu mát cho trẻ nằm. Khi sử dụng điều hòa, cần chú ý nhiệt độ vừa phải, không quá lạnh.
Chú ý: Khi trẻ bị rôm sảy, mẩn ngứa, có những thói quen, cách chăm sóc không đúng đã vô tình làm tình trạng của trẻ thêm nặng hơn, vì vậy, các bậc cha mẹ cần lưu ý: Không nặn những nốt rôm sẩy trên da trẻ vì làm dịch trong nốt lan ra, làm lây lan bệnh, có thể khiến trẻ bị viêm da; Không được massage cho trẻ, đặc biệt là sử dụng các loại tinh dầu vì có thể làm bít kín lỗ chân lông, khiến tình trạng của trẻ nặng thêm; Không sử dụng sữa tắm người lớn để tắm cho trẻ vì trong sữa tắm người lớn thường có hàm lượng chất tẩy rửa cao, trong khi da trẻ còn non, dễ khiến trẻ bị kích ứng thêm; Không tự ý bôi, sử dụng thuốc cho trẻ khi chưa có chỉ dẫn của bác sỹ.
TS. Nguyễn Ngọc Sáng
Sốt phát ban là bệnh hay gặp ở trẻ em, nhất là trẻ từ 6 – 36 tháng tuổi. Đây là giai đoạn trẻ có sức đề kháng rất kém vì lượng kháng thể tự nhiên của mẹ truyền cho trẻ đã giảm xuống đáng kể trong khi hệ miễn dịch của trẻ chưa hoàn thiện. Hầu hết những nguyên nhân gây sốt phát ban cho trẻ là những virut lành tính, nếu được chăm sóc tốt bệnh có thể tự lành sau 5 – 7 ngày.
Chăm sóc trẻ đúng cách tại nhà
Hạ sốt đúng cách cho trẻ: Nếu trẻ sốt từ 38 độ C cho trẻ uống thuốc hạ sốt loại paracetamol loại đơn chất với liều 10 – 15mg/kg cân nặng theo chỉ định của bác sĩ, 4 – 6 giờ một lần. Lau mát cho trẻ bằng nước ấm khi cần, để tránh biến chứng sốt cao co giật ở trẻ.
Trẻ bị sốt phát ban cần được tái khám theo đúng lịch hẹn của bác sĩ.
Giảm ho, giảm đau họng cho trẻ: Khi trẻ ho nên cho trẻ uống các loại thuốc ho có nguồn gốc thảo dược như rau tần dầy lá, quất chưng với đường phèn, gừng hấp mật ong…
Làm thông mũi trẻ bằng nước muối loãng và khăn giấy mềm: Giúp trẻ dễ ăn uống và bú sữa mẹ.
Cho trẻ ăn thức ăn lỏng, mềm dễ tiêu hóa, giàu dinh dưỡng như cháo, súp, sữa và bổ sung đủ nguồn nước uống cho trẻ. Nên chia nhỏ bữa ăn để giúp trẻ nhận đủ chất dinh dưỡng cần thiết.
Cho trẻ uống nhiều nước hơn bình thường, nhất là những loại nước ép trái cây tươi để đảm bảo việc cung cấp đủ nguồn vitamin cho cơ thể, cải thiện sức đề kháng.
Giữ vệ sinh da luôn sạch và khô thoáng bằng cách tắm rửa cho trẻ sạch sẽ mỗi ngày, không nên kiêng gió, kiêng nước, kiêng ăn.
Thói quen kiêng gió, kiêng nước bằng cách trùm kín trẻ, không vệ sinh cơ thể sẽ làm trẻ khó hạ sốt và dễ co giật do sốt cao. Không vệ sinh cơ thể sẽ làm trẻ khó chịu và dễ nhiễm trùng da và biến chứng viêm phổi. Tuy nhiên, không nên để trẻ bị lạnh.
Không nên kiêng khem cho trẻ quá mức sẽ làm cho trẻ rất dễ bị suy dinh dưỡng, sức đề kháng kém và dễ bị nhiễm trùng.
Trẻ bị sốt phát ban được chăm sóc tại nhà sẽ được hướng dẫn tái khám theo hẹn mỗi ngày hoặc 2 ngày một lần tùy theo tình trạng bệnh của trẻ. Cha mẹ cần cho trẻ đến khám lại ngay khi phát hiện trẻ có những dấu hiệu sau:
– Trẻ bị sốt cao không hạ sau khi đã phát ban.
– Thay đổi tri giác: lừ đừ, ngủ li bì, hôn mê.
– Trẻ bị co giật.
– Trẻ thở mệt, thở nhanh, khó thở.
Bác sĩ Nguyễn Minh Ngọc
Giữ vệ sinh cho trẻ sơ sinh là điều cần làm để đảm bảo sức khỏe cho trẻ, nhưng “thái quá” đôi khi dễ gây bất lợi. Ví dụ, trường hợp người thân, bạn bè muốn bế bé nhưng mẹ bầu lại yêu cầu họ phải rửa sạch tay hoặc không cho phép tiếp xúc khi trẻ bị cảm cúm, ho. Theo khuyến cáo của các chuyên gia nhi khoa thì nhóm trẻ dưới 6 tháng tuổi có hệ miễn dịch yếu nên đề phòng, giữ vệ sinh, tránh tiếp xúc đám đông người, không cho người lạ bế ẵm. Tuy nhiên, cũng không nên “kiêng tuyệt đối” nhất là người thân trong gia đình hoặc bạn bè khỏe mạnh.
Từ lâu khoa học khuyến cáo nên cho bé bú mẹ càng sớm, càng lâu càng có lợi. Lý do, sữa không chỉ chứa nhiều dưỡng chất, tốt cho cả hệ miễn dịch cho bé và tốt cho cả mẹ bầu. Thời gian bú toàn thời gian ít nhất 6 tháng đầu đời, nếu có điều kiên kéo dài tới 24 tháng sau sinh. Ngoài cai sữa, nếu cho ăn dặm quá sớm cũng có thể gây bất lợi, ảnh hưởng không tốt đối với hệ tiêu hóa của trẻ. Lâu ngày dẫn đến bị viêm ruột già, phát sinh ra rối loạn tiêu hóa.
Nhiều bậc cha mẹ thường chọn quần áo cho bé theo sở thích thời trang chủ quan của người lớn, phát sinh hiện tượng quá chật hay quá rộng, không hợp thời tiết. Theo khuyến cáo, cơ thể trẻ sơ sinh còn non nớt nên chọn quần áo mềm và có tác dụng giúp cho cơ thể thoát khí. Không nên vừa lòng cha mẹ mà làm cho bé khó chịu, thậm chí gây bệnh, nhất là khi thời tiết quá nóng hay quá lạnh.
Đây là lỗi thường gặp ở các bậc cha mẹ. Thường cho trẻ dùng những đồ chơi không hợp với độ tuổi hoặc có chứa chất độc hại, nhất là khi trẻ ngậm miệng, thậm chí có trường hợp nuốt vào bụng. Nên chọn đồ chơi đơn giản phù hợp độ tuổi và có tác dụng làm tăng tính thông minh, loại bỏ đồ chơi có chứa chì và các hóa chất độc hại, thủ phạm gây phá hủy não, gây suy giảm trí nhớ của bé.
Rất nhiều mẹ bầu vô ý thường đặt bé nằm sấp khi ngủ, phía dưới kê đệm mềm. Đây là một sai lầm cần tránh vì làm tăng Hội chứng đột tử khi ngủ (SIDS) hoặc hội chứng ngừng thở do đường khí thở bị chèn ép.
Khi trẻ ngủ tốt không quấy khóc nhưng các mẹ bầu vẫn không cho trẻ uống nước, bởi cho rằng trẻ không quấy khóc nghĩa là không cần ăn uống. Theo khuyến cáo, nên cho trẻ ăn uống theo lịch ấn định và thường xuyên bổ sung nước cho trẻ. Nên có kinh nghiệm nhận biết khi nào thì trẻ no, nếu ướt tã 6 lần/ngày trong tuần sinh đầu tiên được xem là bình thường, ngược lại nếu ít hơn là có vấn đề, cần tư vấn bác sĩ để có phương án khắc phục.
Rất nhiều mẹ bầu khi trẻ bị ốm đã tự ý cho trẻ dùng thuốc kháng sinh, thậm chí còn cho dùng liều cao để cho nhanh khỏi bệnh. Theo khuyến cáo của giới y học thì thuốc kháng sinh không phải là “thần dược” đối với trẻ nhỏ, nhất là khi chỉ dùng riêng một loại thuốc này, nó không có tác dụng trị bệnh do virút gây ra như cúm, tiêu chảy, nôn ói hay viêm họng, nó chỉ có tác dụng đối với khuẩn Streptococcus. Ngoài ra dùng kháng sinh ở trẻ sơ sinh còn gây hại nhiều hơn lợi, nếu lạm dụng có thể gây tình trạng kháng thuốc kháng sinh. Vì lý do này khi trẻ ốm đau nhất thiết phải tư vấn và dùng thuốc theo đúng hướng dẫn của bác sĩ.
Như trên đã đề cập, ngoài việc cho trẻ dùng những đồ chơi không phù hợp độ tuổi, nhiều bà mẹ còn cho trẻ tiếp cận những vật dụng nguy hiểm dễ nuốt vào bụng, thuốc chữa bệnh, thuốc diệt chuột, diệt sâu bọ, thiết bị điện, điện tử hay bồn tắm, bể bơi… Để đảm bảo an toàn tính mạng cho trẻ, các gia đình cần để xa đồ vật, ngoài tầm với của trẻ, nhất là thuốc chữa bệnh, các loại vật dụng nguy hiểm có liên quan đến điện, khí đốt, bếp gas, chỉ cho trẻ dùng những đồ chơi phù hợp và có sự theo dõi của người lớn.
Do điều kiện kinh tế khó khăn nhiều bà mẹ đã để con mới sinh ngủ một mình ở nhà rồi đi làm việc khác hay cho trẻ ngủ trong xe ô tô. Đây là thói quen nguy hiểm, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng của bé, nhất là trong gia đình nuôi các loại thú cưng và khí độc trong xe. Rủi ro thường thấy là trẻ bị ngã, chấn thương, thậm chí còn bị thú làm tổn thương, cắn hay ăn thịt. Vì lý do này, khi trẻ ngủ nhất thiết phải có người trông nom coi cẩn thận, không nên khóa cửa rồi đi làm việc khác.
Trang Nhung
(Theo Parents – 5/2017)
Cách phát hiện bệnh SHX ở trẻ em
Bệnh sốt xuất huyết Dengue (SXHD) thường bắt đầu bằng triệu chứng sốt với các đặc điểm: sốt đột ngột, liên tục và sốt cao. Triệu chứng xuất huyết thường xảy ra sau khi bắt đầu sốt một vài ngày với biểu hiện rất đa dạng: chảy máu cam, chảy máu dưới da, nôn hay tiểu ra máu. Tuy nhiên, có những trẻ hoàn toàn không bị xuất huyết, bệnh chỉ biểu hiện với các triệu chứng sốt, ho, đau họng cho nên có thể nhầm với viêm họng.
Bệnh SXHD xảy ra phức tạp, đặc biệt là biến chứng sốc có thể dẫn đến tử vong, vì vậy được chia thành 4 thể bệnh (cấp) để tiện cho việc theo dõi đánh giá và tiên lượng bệnh.
Ở cấp 1, người bệnh chỉ sốt, chưa có triệu chứng xuất huyết. Cấp 2, người bệnh sốt có triệu chứng xuất huyết (xuất huyết dưới da, chảy máu cam, chảy máu chân răng, khạc ra máu, thậm chí nôn ra máu, tiểu ra máu hoặc kinh nguyệt kéo dài (nữ giới). Ở cấp 3, người bệnh bắt đầu có dấu hiệu sốc và cấp 4 thì đã bị sốc nặng.
Đặc biệt, cần lưu ý là xuất huyết không phải là một triệu chứng bắt buộc, có hay không xuất huyết thì bệnh vẫn có thể xảy ra sốc. Sốc là biến chứng nguy kịch nhất của bệnh SXH. Đa số trẻ SXH bị tử vong là do sốc nặng.
Sốc là một hội chứng (gồm nhiều triệu chứng) với sự thể hiện tụt nhiệt độ cơ thể (thân nhiệt giảm xuống dưới mức bình thường), nếu thân nhiệt giảm cùng với thời điểm của thuốc hạ nhiệt tác động mạnh thì rất nguy hiểm. Người bệnh có thể bị giảm tri giác, tinh thần biểu hiện kém lanh lợi, lờ đờ, thậm chí lơ mơ, mê sảng. Kèm theo các biểu hiện đó là tụt huyết áp.
Muỗi mang virut SXH gây bệnh cho trẻ. |
Chăm sóc trẻ bị SXH như thế nào?
Khi nghi ngờ bị SXH thì cần đưa trẻ đi khám ở cơ sở y tế gần nhất và khi đã được bác sĩ chẩn đoán là bị SXHD thì cần tuân theo sự tư vấn của bác sĩ. Trẻ sốt xuất huyết cấp 1 sẽ được điều trị tại nhà theo đơn, có hẹn ngày khám lại.
Với cấp 2 thì trẻ có thể điều trị tại nhà có theo dõi chặt chẽ hoặc nhập viện nếu xét thấy cần thiết. Ở đây, cần lưu ý là “theo dõi” tại gia đình 24/24giờ chứ không phải cho về không cần can thiệp gì. Cần theo dõi nhiệt độ của trẻ bằng cách cặp nhiệt độ ở nách hoặc hậu môn hay cặp bên khóe miệng cứ vài giờ một lần.
Trong trường hợp dùng cặp nhiệt độ điện tử thì trước khi cặp cho trẻ nên cặp thử trên người bình thường để đánh giá tính xác thực của dụng cụ điện tử dùng đo thân nhiệt, nếu thấy sai lệch thì nên thay bằng nhiệt kế thủy ngân.
Cần cho trẻ nghỉ ngơi tuyệt đối, không nên để trẻ nô đùa nhiều và nên tránh dùng quần áo quá dày hoặc mặc nhiều áo quần hay ủ kín trẻ. Nếu nhiệt độ của trẻ trên 38oC, cần cho trẻ uống thuốc hạ nhiệt loại paracetamol đơn chất với liều lượng từ 10 – 15mg/kg trọng lượng cơ thể trẻ, cứ 6 giờ/lần nếu trẻ vẫn còn sốt cao. Sau khi uống thuốc hạ nhiệt 1 giờ, cần đo lại nhiệt độ. Tuyệt đối không dùng aspirin vì chất này sẽ làm rối loạn đông máu gây chảy máu kéo dài rất nguy hiểm cho người bị SXHD, đặc biệt là trẻ em.
Nếu thân nhiệt của trẻ trên 37 độ, dưới 38 độ thì không cần cho trẻ uống thuốc hạ nhiệt mà chỉ cần lau mát cho trẻ bằng khăn nhúng nước ấm (nước có nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ của trẻ vài ba độ) để làm thoát nhiệt cho trẻ dễ dàng.
Khi trẻ bị sốt cao trong một thời gian dài (trên 39độ) sẽ làm cho trẻ bị mất nước và các chất điện giải kèm theo, dẫn đến rối loạn thần kinh, thậm chí co giật. Vì vậy, cần cho trẻ uống nhiều nước để bù dắp lượng nước bị mất do sốt, nếu trẻ uống được nước pha từ oresol thì càng tốt.
Nếu không có oresol, có thể cho trẻ uống nước gạo rang hoặc nước muối (cho 2 thìa cà phê muối ăn cùng với 8 thìa cà phê đường trong 1 lít nước đun sôi, để nguội, uống dần trong ngày). Nên cho trẻ uống thêm nước cam, chanh tươi để có thêm sinh tố C. Khi mắc bệnh, trẻ thường có triệu chứng nôn mửa, miệng nhạt, lười ăn hoặc không chịu ăn, làm cho trẻ ăn không đủ lượng thức ăn cần thiết nên dễ bị hạ đường huyết.
Theo dõi thân nhiệt khi trẻ có biểu hiện sốt.
|
Để đảm bảo cho trẻ ăn đủ chất, cần tiếp tục cho trẻ ăn các thức ăn hàng ngày, dễ tiêu. Nếu trẻ ăn ít hoặc bị nôn mửa thì cần cho trẻ ăn nhiều bữa để cung cấp đủ năng lượng cho trẻ, tránh bị suy kiệt sau SXHD. Cần tránh các loại thức ăn có nhiều mỡ. Trẻ đang bú mẹ thì nên cho trẻ bú thêm số lần và kéo dài thêm thời gian. Cần dùng thêm sữa để cung cấp chất dinh dưỡng cho trẻ.
Phải đưa trẻ đến bệnh viện ngay Nếu trẻ có dấu hiệu bất thường như hạ thân nhiệt, xuất huyết (xuất huyết dưới da, chảy máu cam, nôn ra máu…) phải khẩn trương cho trẻ đi bệnh viện ngay không được chần chừ. |
PGS.TS. Bùi Khắc Hậu
Mọi người đều có thể bị bệnh sốt xuất huyết nhưng hay gặp là trẻ em, nếu không biết cách phát hiện sớm, theo dõi và chăm sóc điều trị đúng có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí tử vong.
Dấu hiệu nhận biết
Bệnh SXH có 2 triệu chứng cơ bản, đó là: sốt và xuất huyết. Trong đó triệu chứng sốt là cơ bản vì luôn xảy ra lúc bệnh khởi phát. Chứng sốt trong bệnh SXH có một số đặc điểm khác với chứng sốt của bệnh khác với 3 đặc điểm: sốt đột ngột; sốt cao: nhiệt độ lên tới 39-40oC hoặc cao hơn, sờ vào trán trẻ thấy nóng ran; sốt liên tục, liên miên ngày đêm không lúc nào ngưng, có cho trẻ dùng thuốc hạ sốt thì nhiệt độ cũng chỉ giảm một lát lại tăng lên.
Để trẻ nghỉ ngơi trong phòng thoáng mát, có thể áp dụng chườm khăn ấm giúp trẻ hạ sốt.
Chứng sốt này thường kéo dài từ 2-7 ngày. Kèm theo sốt nhiều trẻ còn đau bụng, thường là đau vùng rốn hoặc bên phải rốn. Ói mửa, sình bụng cũng là triệu chứng hay gặp.
Triệu chứng xuất huyết thường xảy ra sau khi bắt đầu sốt một vài ngày và rất đa dạng: có trẻ thấy nổi mẩn, phát ban dưới da (thể nhẹ), có trẻ xuất hiện nốt xuất huyết, hoặc chảy máu cam, chảy máu chân răng; có trẻ lại nôn hay đại tiện ra máu (xuất huyết nội tạng là thể nặng). Tuy nhiên, có những trẻ bị SXH nhưng lại không hề có một triệu chứng xuất huyết nào. Dù có hoặc không có triệu chứng xuất huyết thì bệnh vẫn có thể dẫn tới biến chứng vô cùng nguy hiểm đó là sốc xuất huyết.
Bệnh SXH được chia làm 4 độ từ nhẹ tới nặng. Ở độ 1, người bệnh chỉ sốt, chưa có triệu chứng xuất huyết; độ 2, người bệnh sốt có triệu chứng xuất huyết; ở độ 3, người bệnh bắt đầu có dấu hiệu sốc và độ 4 thì đã bị sốc nặng. Trẻ SXH độ 1 sẽ được điều trị tại nhà theo đơn, có hẹn ngày tái khám. Với độ 2, tùy trường hợp, trẻ có thể điều trị tại nhà có theo dõi chặt chẽ, hoặc nhập viện nếu xét thấy cần thiết. Những trường hợp độ 3 và 4 nhất thiết phải nhập viện ngay.
Cách chăm sóc trẻ SXH
Khoảng 70% trẻ SXH được điều trị tại nhà (điều trị ngoại trú sau khi được thầy thuốc thăm khám). Trong trường hợp này, cần cho trẻ nằm nghỉ tuyệt đối, uống nước đầy đủ, ăn các chất dễ tiêu, thực hiện đúng đơn thuốc của bác sĩ và theo dõi chặt chẽ sự tiến triển của bệnh.
Về nghỉ ngơi và dinh dưỡng: Trẻ cần nằm nghỉ trong phòng thoáng mát. Tuyệt đối không ra mưa, ra nắng, không đi đâu vì nhiều trẻ tuy sốt những vẫn có vẻ khỏe mạnh. Cho trẻ uống nước đầy đủ là điều rất cần thiết vì bệnh SXH thường làm máu bị cô đặc lại, rất khó lưu thông. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra biến chứng sốc. Để phòng tránh, nên cho trẻ uống oresol (để bù nước) hoặc nước cam, nước chanh, nước khoáng hay nước lọc đun sôi. Cho trẻ uống từ từ, thong thả vì việc uống quá nhanh, quá nhiều cùng một lúc có thể sẽ gây nôn, đầy bụng. Về ăn, cần chọn các chất dễ tiêu như cháo, súp và không bao giờ được ăn no quá.
Về thuốc: Trong bệnh SXH, các bác sĩ thường cho trẻ dùng thuốc hạ sốt thông thường paracetamol (với nhiều tên khác nhau như acemol, cetamol, efferalgan, panadol) không bao giờ cho trẻ dùng các thuốc nhóm aspirine như aspegic, aspro… chúng có thể làm tăng nguy cơ chảy máu và một số tai biến khác (có trường hợp dẫn đến tử vong). Không được tự ý cho trẻ dùng thuốc kháng sinh vì chúng không có tác dụng gì với bệnh SXH mà chỉ làm trẻ mệt thêm. Trường hợp trẻ sốt cao, có thể áp dụng thêm phương pháp lau mát; nếu sờ hai bàn chân trẻ thấy lạnh thì dùng 1 chai nước ấm ủ giữa 2 bàn chân.
Phòng ngừa sốt xuất huyết
Cách phòng ngừa bệnh SXH đơn giản là chống muỗi đốt. Cụ thể diệt muỗi, diệt loăng quăng và chống muỗi đốt. Việc đầu tiên là giữ cho nhà cửa sạch sẽ, sáng sủa, khô ráo vì tối tăm ẩm thấp là những điều kiện thuận lợi cho muỗi cư trú và phát triển. Việc thứ 2 là phát quang bụi rậm quanh nhà, đậy kín lu vại, dọn các vũng nước sau mưa, vỏ lon, lọ, lốp xe… vì đó là nơi muỗi tới sinh nở. Mọi người phải nằm ngủ trong màn để tránh muỗi đốt. Khi nghi ngờ bị SXH, cần đưa ngay người bệnh đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời.
Sốc thường xảy ra từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 7, các triệu chứng tiền sốc, bao gồm: trẻ đang tỉnh táo, bỗng trở nên lừ đừ, có khi vật vã; trẻ có những cơn đau bụng dữ dội mà trước đây không có hoặc rất ít; tay, chân lạnh; da trẻ đổi màu, trở nên bầm bầm, môi xám lại. Trẻ tiểu ít hẳn hoặc không tiểu chút nào, nhưng rất khát, đó là hội chứng choáng do xuất huyết nội tạng gây mất máu, tụt huyết áp, nếu không được cấp cứu và điều trị kịp thời có thể dẫn đến tử vong.
BS. Trần Kim Anh
Tuy nhiên tôi rất lo lắng vì nhiều người nói bị quai bị rất nguy hiểm. Xin bác sĩ tư vấn cách chăm sóc trẻ khi bị căn bệnh này.
Ngô Văn Sĩ (Lào Cai)
Quai bị là một bệnh nhẹ nhưng có thể gây những biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm màng não, đặc biệt là vô sinh. Hiện chưa có thuốc đặc trị. Bệnh có thể gặp ở tất cả mọi người nhưng thường gặp nhất ở trẻ em (trên 2 tuổi). Quai bị do virut gây nên và rất dễ lây qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt bệnh nhân. Bệnh nhân bị sốt cao (39-40 độ C) trong 3-4 ngày, chảy nước bọt và má sưng to (có thể sưng một bên mặt rồi lan sang bên kia hoặc sưng hai bên cùng một lúc), gây đau khi nuốt nước bọt. Bệnh thường tự khỏi sau 1 tuần đến 10 ngày. Sau đó, bệnh nhân được miễn dịch suốt đời. Nếu không giữ gìn tốt, bệnh có thể gây một số biến chứng nguy hiểm: sưng tinh hoàn và buồng trứng, có thể dẫn đến vô sinh (dù là rất hiếm). Dấu hiệu chủ yếu là tinh hoàn sưng to, đau; nữ thấy tức bụng và đau khi sờ nắn; viêm não hoặc viêm màng não: thường xuất hiện sau 7-10 ngày với triệu chứng nhức đầu nghiêm trọng và cứng cổ. Khi trẻ có các dấu hiệu quai bị, cha mẹ cần đưa trẻ đi khám để chẩn đoán xác định. Nếu quai bị thể nhẹ, bác sĩ sẽ hướng dẫn cha mẹ cách chăm sóc trẻ ở nhà: hạ nhiệt bằng cách lau mình trẻ bằng nước ấm (không được lau bằng nước lạnh). Có thể cho dùng paracetamol để hạ sốt và giảm đau; cho uống nhiều nước và súc miệng bằng nước muối sinh lý hay nước súc miệng; cho trẻ ăn loãng hoặc ăn bằng ống hút (nếu trẻ nuốt khó); không được cho trẻ nô đùa chạy nhảy vì những hoạt động này rất dễ dẫn đến biến chứng ở tinh hoàn. Cần đưa trẻ tới bệnh viện ngay khi có các biểu hiện biến chứng hoặc thấy bệnh nặng.
BS. Văn Bàng
Thời điểm đầu năm mới (mùa đông xuân), nhiệt độ hạ thấp gây rét đậm, rét hại, độ ẩm trong không khí không ổn định, đan xen những ngày lạnh và khô là những ngày mưa ẩm. Thời tiết thất thường luôn làm các bà mẹ lúng túng trong việc chăm sóc bé yêu của mình như thế nào là tốt và đúng cách. Không ít bà mẹ chỉ chăm sóc con theo kinh nghiệm dân gian hoặc cảm tính đã khiến con mình trở nên ốm nhiều hơn. Những sai lầm phổ biến dưới đây của cha mẹ khi chăm sóc trẻ trong ngày lạnh.
Cho mặc bỉm 24/24 giờ
Con mặc bỉm suốt ngày sẽ tiện nhiều bề cho mẹ và giữ ấm cho trẻ. Tuy nhiên, việc làm này không tốt vì bỉm để lâu có thể gây tổn hại đến sức khỏe và làn da của bé. Trẻ đóng bỉm suốt ngày bị dính nước tiểu dễ bị lở loét, ảnh hưởng xấu tới da. Do đó, trẻ bị hăm là một điều khó tránh khỏi khi phải đóng bỉm thường xuyên. Hơn nữa, khi trẻ đi tiểu nhiều mà chưa kịp thay bỉm, nước tiểu trong bỉm sẽ ngấm ngược gây lạnh cho trẻ.
Đặc biệt, việc dùng bỉm thường xuyên kéo dài ở bé trai còn gây hại cho tinh hoàn. Đeo bỉm thường bị kín hơi, lại bó sát vào cơ thể trẻ, dễ làm cho nhiệt độ tăng lên, trong khi đó nhiệt độ thích hợp nhất cho tinh hoàn bé trai là khoảng 34oC. Khi nhiệt độ tăng lên tới 37oC và nếu tình trạng này diễn ra lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến tinh hoàn trong việc sản xuất tinh trùng sau này.
Không dùng nước quá nóng tắm cho trẻ, nên tắm cho trẻ nhiệt độ từ 33 – 36oC.
Sử dụng điều hòa, máy sưởi ở nhiệt độ cao
Giữ cho phòng ngủ của trẻ kín gió và ấm áp là cần thiết. Nhưng nếu cứ đóng kín cửa phòng 24/24 giờ sẽ khiến không khí trong phòng ngột ngạt, thiếu ôxy, khiến cơ thể mệt mỏi và làm tăng lượng vi khuẩn sinh sôi. Bên cạnh đó, nhiều gia đình lạm dụng các loại thiết bị sưởi ấm như điều hòa, máy sưởi sẽ khiến không khí trong phòng rất khô và cơ thể có nguy cơ mất nước, khô da, khô mũi, ảnh hưởng đến hệ hô hấp gây khó thở ở trẻ em. Vì vậy, cha mẹ chỉ cần đảm bảo nhiệt độ trong phòng luôn ấm áp với nhiệt độ khoảng 28oC, thông thoáng và tránh gió lùa là tốt nhất. Trước khi cho trẻ ra ngoài nên mặc thêm áo khoác và đi giày ấm để tránh cảm lạnh đột ngột.
Dùng nước quá nóng để tắm cho trẻ
Dù trời lạnh thì một tuần cũng nên tắm cho trẻ 2-3 lần. Việc ngại tắm hoặc khi tắm thì dùng nước rất nóng vì sợ trẻ bị lạnh cũng đều là sai lầm. Nhiệt độ nước thích hợp cho trẻ tắm mùa đông là từ 33-36oC. Khi dùng tay để thử thì người lớn cảm thấy nước đủ ấm tức là nước đó bị nóng với trẻ. Vì vậy, cha mẹ nên dùng nhiệt kế để xác định nhiệt độ nước tắm thích hợp cho trẻ. Khi tắm cho trẻ cần tắm trong phòng kín gió, nếu cần thiết chuẩn bị thêm quạt sưởi và chỉ tắm tối đa trong thời gian từ 5-7 phút để tránh cảm lạnh.
Ủ ấm quá mức
Để chống lại cái lạnh giá của mùa đông, cha mẹ thường mặc cho trẻ rất nhiều quần áo. Tuy nhiên đây là một điều hoàn toàn sai lầm, việc ủ ấm quá mức có thể sẽ gây thêm bệnh cho trẻ. Cha mẹ cần biết, thân nhiệt của trẻ không giống như người lớn vì vậy chúng sẽ cảm thấy nóng hoặc lạnh nhanh hơn. Nếu mặc quá ấm, trẻ dễ bị ra mồ hôi lưng, đầu, rồi ngấm ngược lại dẫn đến cảm lạnh, viêm phổi… Việc ứ đọng mồ hôi trên da còn là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển gây ra các bệnh về da, gây ngứa ngáy, khó chịu.
Một việc làm thường thấy, nhất là với các trẻ ở nông thôn là đội mũ ấm khi đi ngủ. Đối với trẻ sơ sinh, đầu là nơi tạo ra khoảng 40% thân nhiệt, nhưng đồng thời lại là nơi giải phóng đến 85% nhiệt độ cơ thể. Chính vì vậy, việc đội mũ và dùng băng quấn thóp là cần thiết với bé mới sinh (đặc biệt là các bé sinh non) nhưng với bé khỏe mạnh và đã được vài tháng tuổi, việc đội mũ khi ngủ là không cần thiết, mà ngược lại sẽ khiến nhiệt độ của não bé tăng cao, ảnh hưởng đến hoạt động của vùng thần kinh kiểm soát hô hấp.
Không cho trẻ ra ngoài trời
Trong ngày lạnh, phần lớn trẻ ở trong phòng kín. Có bé vài ngày không ra ngoài trời. Việc ở trong phòng lâu ngày sẽ khiến trẻ ốm yếu và dễ mắc bệnh hơn. Đối với trẻ dưới 5 tuổi, cần được ra ngoài trời tắm nắng hàng ngày để hấp thụ vitamin D, rất có lợi cho quá trình phát triển của trẻ. Thời điểm lí tưởng để mẹ cho trẻ ra ngoài đón nhận ánh nắng mặt trời vào mùa đông là vào khoảng 8-9h30 và thêm khoảng 10-15 phút buổi chiều từ 15-17h. Trẻ cũng cần được vận động ngoài trời để tăng khả năng thích nghi với các yếu tố thời tiết, tăng sức đề kháng, phòng tránh được nhiều bệnh dễ lây nhiễm. Tuy nhiên, khi cho trẻ chơi ngoài trời, cần lưu ý mặc quần áo đủ ấm nhưng vẫn thoáng để khi trẻ ra mồ hôi không thấy quá nóng, thường xuyên kiểm tra mồ hôi lưng để kịp thay áo cho trẻ.
Ðể bụng bé bị nhiễm lạnh
Trẻ nhỏ khi ngủ thường hay đạp tung chăn, hở chân, hở bụng… Điều này sẽ khiến cho bé bị lạnh bụng dẫn đến đau bụng hoặc rối loạn tiêu hóa… Tuy nhiên, không ông bố, bà mẹ nào có thể thức cả đêm để kéo áo, che bụng cho con… Vì vậy, trước khi trẻ đi ngủ nên cho trẻ mặc loại áo liền quần hoặc cho trẻ đắp chăn túi (loại chăn riêng có phéc-mơ-tuya để bảo vệ bụng không bị nhiễm lạnh) và đi bít tất cho trẻ đề phòng trẻ bị nhiễm lạnh.
Lời khuyên của thầy thuốc
Một đứa con khôn lớn, mạnh khỏe là mong ước của cha mẹ. Vì vậy, mọi người cần biết các phương pháp bảo vệ sức khỏe khoa học cho con mình. Đó là: tăng cường sức đề kháng cho trẻ bằng việc bổ sung thực đơn đầy đủ dinh dưỡng, đặc biệt là các loại rau xanh, trái cây chứa nhiều vitamin cần thiết. Cần cho trẻ uống đủ nước, nên uống nước ấm. Giữ ấm cơ thể cho trẻ đúng mức, không nên mặc quá nhiều quần áo khiến trẻ đổ mồ hôi và bị nhiễm lạnh trở lại. Nhắc nhở trẻ rửa tay sạch sẽ trước khi ăn và sau khi chạm vào các vật dụng nơi công cộng như tay nắm cửa, vòi nước, bàn ghế… Vệ sinh môi trường sống cho trẻ sạch sẽ. Hạn chế cho trẻ tới nơi đông người, tránh tiếp xúc với người đang mắc bệnh, tránh xa các nguồn ô nhiễm như khói bụi, khói thuốc lá… Đưa trẻ đi tiêm chủng đầy đủ và đúng lịch để phòng bệnh.
BS. Hạnh Nguyễn