cây thuốc – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com Thông tin sức khỏe cho cộng đồng Fri, 20 Jul 2018 01:20:22 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.4 http://tapchisuckhoedoisong.com/wp-content/uploads/2018/07/cropped-Icon-browser-32x32.png cây thuốc – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com 32 32 Lô hội – Cây thuốc quý http://tapchisuckhoedoisong.com/lo-hoi-cay-thuoc-quy-5711/ Fri, 20 Jul 2018 01:20:22 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/lo-hoi-cay-thuoc-quy-5711/ [...]]]>

Lô hội còn có tên là nha đam, long tu, lưỡi hỗ… Tên khoa học: Aloe vera L var. Nha đam được dùng để làm cảnh, trong chế biến món ăn, mỹ phẩm và làm thuốc. Lô hội là nhựa cây nha đam. Nên chọn nhựa khô có sắc đen hoặc đen nâu, hơi có ánh bóng, cứng, không lẫn tạp chất là tốt.

Lô hội chủ yếu có chứa chất antraglycozit, chủ yếu là aloin. Nhựa chứa acid amin, vitamin (B1, B2, B5, B6, B12, axít folic, C, A, E); khoáng tố vi lượng (Na, K, Ca, P, Cu, Fe, Zn, Mg, Mn, Cr)… Theo Đông y, lô hội vị đắng, tính hàn. Vào kinh can, tỳ, vị, đại trường. Có tác dụng thông đại tiện, thanh nhiệt, mát gan, sát trùng, thường dùng làm thuốc xổ trị táo bón, chữa viêm loét dạ dày, làm lành vết thương, bệnh ngoài da, thông kinh nguyệt, sỏi niệu, đái tháo đường… Dùng ít tác dụng kiện vị, mỗi lần uống 0,01 – 0,03g. Dùng nhuận trường, mỗi lần uống 0,06 – 0,2g. Dùng xổ, mỗi lần  1 – 2g. Sau đây là một số cách dùng lô hội làm thuốc:

Trị cam, sát trùng, hòa vị, chỉ tả

Dùng bài:  Lô hội hoàn: lô hội 40g,  hạc sắt 40g, lôi hoàn 40g, mộc hương 40g, thanh đại 40g, thuyền thoái 20 cái, vu di 40g, xạ hương 4g. Các vị tán bột làm hoàn, ngày uống 2 – 4g.

Lô hội có tác dụng với bệnh viêm loét dạ dày – tá tràng.

Trị táo bón, tiểu bí do nhiệt kết

Dùng bài: Lô hội thông tiện giào hoàn: lô hội 6g. Nghiền nát, phân ra cho vào 6 viên nang nhỏ. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 – 3 viên nang. Nếu không có viên nang, dùng đường trộn với thuốc, ngậm nuốt dần. Tác dụng: thanh nhiệt, thông lâm..

Trị ghẻ lở, lở loét hậu môn

Dùng  bài: Lô hội tán: lô hội 30g, cam thảo 15g. Tán bột. Dùng nước đậu hũ rửa chỗ loét rồi đắp thuốc vào.

Trị can đởm thực nhiệt gây ra táo bón, tiểu đỏ, ít, hoa mắt, chóng mặt, nặng hơn thì co giật, phát cuồng, nói nhảm.

Dùng bài: Đương quy lô hội hoàn: lô hội, đại hoàng, thanh đại (thủy phi) mỗi thứ 4g; đương quy, long đởm thảo, hoàng cầm, chi tử, hoàng bá, hoàng liên mỗi thứ 6g; mộc hương 5,5g, xạ hương 0,3g (để riêng). Các vị tán bột, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 6 – 10g, ngày 3 lần.

Trị cam nhiệt, giun đũa: lô hội 15g. Tán bột, mỗi ngày uống 6g lúc đói với nước  ấm.

Mụn nhọt: lá lô hội tươi giã nát, đắp lên mụn nhọt.

Trứng cá: lá lô hội tươi bóc vỏ, lấy phần gel tươi, xoa lên vùng bị trứng cá, ngày làm 1 lần. Làm liên tục nhiều ngày.

Đái tháo đường: lá lô hội 20g. Sắc uống ngày 1 thang (có thể uống sống).

Tiểu đục: lô hội tươi 20g giã nát, thêm đạm qua tử nhân 30 hạt, uống trước bữa ăn, ngày 2 lần. Có thể dùng hoa lô hội 20g nấu với thịt lợn ăn.

Tiêu hóa kém: lô hội 20g, bạch truật 12g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần.

Viêm loét tá tràng: lô hội 20g, dạ cẩm 20g, nghệ vàng 12g (tán bột mịn), cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần. Nếu ợ chua nhiều, thêm mai mực tán bột 10g chiêu với nước thuốc trên. 15-20 ngày là 1 liệu trình.

Bế kinh, đau bụng kinh: lô hội 20g, nghệ đen 12g, rễ củ gai 20g, tô mộc 12g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1thang, chia 2-3 lần.

Lưu ý:

– Lô hội có tác dụng tẩy mạnh, vì vậy, nên giảm liều hoặc ngưng thuốc nếu có hiện tượng đi ngoài phân lỏng. Người đã bị đi ngoài phân lỏng thì không nên dùng.

– Nên thận trọng khi dùng cho người cao tuổi.

– Phụ nữ có thai và người tỳ vị hư nhược không được dùng.

Lương y: Minh Phúc

]]>
Những cây thuốc trị bệnh tim mạch http://tapchisuckhoedoisong.com/nhung-cay-thuoc-tri-benh-tim-mach-5709/ Fri, 20 Jul 2018 01:20:13 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/nhung-cay-thuoc-tri-benh-tim-mach-5709/ [...]]]>

Những cây thuốc chữa cơn đau thắt ngực

Đan sâm (Radix Salviae Milliurrhizae): rễ phơi hay sấy khô của cây đan sâm. Đan là đỏ, sâm là sâm, vì rễ cây này giống sâm và có màu đỏ. Đan sâm là loại cỏ sống lâu năm, cao 30 – 80cm. Cây di thực vào Việt Nam, đã gây giống ở Tam Đảo. Thu hoạch rễ vào mùa đông. Đan sâm có tác dụng hoạt huyết, bổ huyết.

Đặc hiệu trên tim và mạch vành, chữa co thắt động mạch vành, di chứng tai biến mạch máu não.

Tam thất (Radix Pseudo Ginseng) là rễ phơi khô của cây tam thất. Tam thất là một loại cỏ nhỏ, sống lâu năm, được trồng ở Hà Giang (Đồng Văn), Lào Cai (Mường Khương), Cao Bằng…, mọc ở vùng núi cao 1.200 – 1.500m. Thành phần hóa học đã được nghiên cứu là 2 chất saponin (arasaponin A và B). Nhân dân ta coi tam thất là một vị thuốc bổ, dùng thay nhân sâm.

Đối với tim mạch, tam thất có tác dụng tiêu huyết ứ, bổ huyết, chữa các chứng đau do huyết ứ trệ (như co thắt động mạch vành, rối loạn tuần hoàn ngoại biên…).

cay thuoc, tim machCây hoa hòe

Những cây thuốc chữa bệnh cao huyết áp

Cây dừa cạn (Vinca rosea), họ Trúc đào, là loại cây nhỏ cao độ 0,4 – 0,8m, mọc hoang và được trồng ở Việt Nam hoặc nhiều nước khác (Ấn Độ, Indonesia, châu Phi, châu Âu và châu Mỹ). Ở Việt Nam, người ta thu hoạch cây, lá, rễ để làm thuốc. Từ dừa cạn, người ta đã chiết ra nhiều alkaloid, nổi tiếng nhất là Vincaleucoblastin (hay Vinblastin) để chữa bệnh Hodgkin và leurocristin (hay vincristin), chữa bệnh bạch huyết và các bệnh về máu. Ở Việt Nam, nhân dân ta dùng dừa cạn dưới dạng thuốc sắc để chữa bệnh cao huyết áp, đái tháo đường và làm thuốc lợi tiểu.

Cây hoa hòe (sophora japonica L., họ cánh bướm), mọc hoang và được trồng khắp nơi. Trong hoa hòe (và cả ở quả) cũng có chất Rutin (một loại vitamin P) dùng cho bệnh nhân cao huyết áp để tăng cường sức chịu đựng của mao mạch.

Cây cúc hoa có 2 loại:

–  Cây cúc hoa trắng (Chrysanthemum sinensis).

–  Cây cúc hoa vàng (Chrysanthemum indicum).

Cây cúc hoa họ Cúc được trồng nhiều ở nước ta để làm thuốc hay ướp chè (Hưng Yên, Hà Nội). Nhân dân ta cũng thường dùng cúc hoa để chữa bệnh cao huyết áp, sốt, nhức đầu…

cay thuoc, tim machĐan sâm

Cây thuốc hoạt huyết dưỡng não

Bạch quả (Ginkgo bibola Lin.) thuộc họ Bạch quả, là loại cây to, cao tới 20 – 30m, có ở Trung Quốc, Nhật Bản. Ở Việt Nam, chỉ thấy trồng rải rác làm cảnh tại một số nơi. Các bộ phận được sử dụng làm thuốc: lá, quả và nhân.

Y học cổ truyền đã ghi nhận: bạch quả ăn chín ích khí, ích phổi, tiêu đờm, trị ho hen…

Còn y học hiện đại dùng dưới dạng cao để chữa các chứng bệnh: kém trí nhớ, cáu gắt ở người cao tuổi, chứng ngủ gà do thuốc tác dụng trên vi tuần hoàn.

Các dược liệu chứa glycoside tim

Hiện chỉ còn digoxin và digitoxin được dùng ở lâm sàng.

Tất cả đều có nguồn gốc từ thực vật: các loài Digitalis, Strophantus.

Digitalis làm tâm thu ngắn và mạnh, tâm trương dài ra, nhịp tim chậm lại. Nhờ đó, tim được nghỉ nhiều hơn, máu từ nhĩ vào thất ở thời kỳ tâm trương được nhiều hơn, cung lượng tim tăng và nhu cầu oxy giảm. Do đó bệnh nhân đỡ khó thở và nhịp hô hấp trở lại bình thường. Digitalis còn làm giảm dẫn truyền nội tại và tăng tính trợ của cơ tim nên nếu tim bị loạn nhịp, thuốc có thể làm đều nhịp trở lại.

cay thuoc, tim machCây dừa cạn

Chỉ định của Glycosid tim:

– Suy tim cấp do: choáng, phù phổi cấp, viêm cơ tim: Ouabain, Strophantin.

– Suy tim mãn do tổn thương van tim, giãn tâm thất: Digoxin, Digitoxin.

– Suy tim nhịp nhanh.

– Phòng suy tim trong nhiễm trùng nhiễm độc: Strophantin, Digoxin.

– Các rối loạn nhịp tim, rung nhĩ, nhịp nhanh trên thất loạn nhịp: Digoxin, Digitoxin.

– Đau thắt tim hoặc phòng nhồi máu cơ tim: Strophantin.

Các cây chứa glycoside tim gồm:

Trúc đào – Apocynaceae; sừng trâu – Strophanthus caudatus (Linnaeus) Kurz; thông thiên – Semen Thevetiae (hạt); dương địa hoàng – Digitalis purpurea L; hạt đay: đay quả dài: Corchorus olitorius L. Họ đay: Tiliaceae.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

]]>
Rau ngót – Cây rau, cây thuốc quý http://tapchisuckhoedoisong.com/rau-ngot-cay-rau-cay-thuoc-quy-4260/ Thu, 19 Jul 2018 11:27:12 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/rau-ngot-cay-rau-cay-thuoc-quy-4260/ [...]]]>

Người ta sử dụng lá rau ngót để nấu canh với thịt hay tôm rất ngon và bổ dưỡng. Rau ngót có nhiều protein, các vi chất dinh dưỡng với hàm lượng rất cao như calci, sắt, vitamin A, vitamin C… và chất xơ. Rau ngót rất tốt cho sức khỏe, thích hợp với mọi lứa tuổi, đặc biệt là phụ nữ sau sinh, trị táo bón và nhanh sạch sản dịch do co thắt cơ tử cung để loại bỏ chất bẩn ra ngoài.

Rau ngót có hàm lượng vitamin A, vitamin C cao hơn hẳn so với bưởi, chanh, cam… thành phần quan trọng trong quá trình sản xuất collagen, vận chuyển chất béo, điều chỉnh nồng độ cholesterol và miễn dịch. Ngoài ra, vitamin C trong cơ thể là yếu tố cần thiết để vết thương mau lành và chống lão hóa giúp cải thiện chức năng não. Vitamin A là cần thiết cho tăng trưởng, quá trình nhìn của mắt, chống nhiễm khuẩn và duy trì làn da khỏe mạnh.

 

Rau ngót tươi giã vắt lấy nước, thấm vào gạc đánh vòm miệng và lưỡi chữa tưa lưỡi ở trẻ sơ sinhRau ngót tươi giã vắt lấy nước, thấm vào gạc đánh vòm miệng và lưỡi chữa tưa lưỡi ở trẻ sơ sinh.

 

Theo Đông y, rau ngót dùng làm thuốc trị sót rau, tưa lưỡi ở trẻ em, chữa ho, ban sởi, sốt cao, tiêu độc… Sau đây là một số bài thuốc từ rau ngót:

Chữa tưa lưỡi cho trẻ em: Trẻ bú mẹ, có thể bị tưa lưỡi do cặn sữa, làm trẻ đau khó bú: Dùng rau ngót làm hết tưa lưỡi chỉ sau 2 ngày: Lá rau ngót tươi từ 5-10g, giã vắt lấy nước, thấm vào bông hay vải gạc đánh lên lưỡi lợi và vòm miệng.

Chữa sót nhau thai: Bà mẹ sau sinh khi sinh con, phụ nữ nạo phá thai, vì nguyên nhân nào đó nhau thai còn sót lại trong tử cung và gây nhiễm khuẩn, sốt cao: dùng nước lá rau ngót uống từ 7 – 10 ngày nhau thai còn sót ở tử cung bị tống ra ngoài và bệnh nhiễm khuẩn sẽ giảm, khỏi: mỗi lần dùng 50g lá rau ngót tươi, rửa sạch, giã nát, đổ nước đun sôi để nguội, gạn lấy nước 100 – 200ml, ngày uống 2 – 3 lần.

Lưu ý: rau ngót có chứa papaverin, gây hiện tượng co thắt cơ trơn tử cung khiến dễ sẩy thai. Vì vậy, phụ nữ có thai nên hạn chế ăn rau ngót.

Rau ngót vừa có giá trị về dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày rất tốt cho sức khỏe, vừa có tác dụng thanh nhiệt, giải độc và chữa một số bệnh. Vì thế, rau ngót là một loại thực phẩm quý và là một vị thuốc hiệu nghiệm, mỗi gia đình nên trồng rau ngót tại nhà để bổ sung cho bữa ăn gia đình bổ dưỡng và an toàn cho sức khỏe.

ThS.BS. Nguyễn Văn Tiến

(Trung tâm Giáo dục Truyền thông dinh dưỡng – Viện Dinh dưỡng Quốc gia)

]]>
Quất – Cây cảnh đẹp, cây thuốc quý http://tapchisuckhoedoisong.com/quat-cay-canh-dep-cay-thuoc-quy-2060/ Wed, 18 Jul 2018 04:07:25 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/quat-cay-canh-dep-cay-thuoc-quy-2060/ [...]]]>

Truyền thuyết về cây quất

Truyện kể rằng, cách đây hơn 800 năm, vào giữa tiết trời đông giá lạnh, cả kinh thành Thăng Long vô cùng lo lắng bởi nhà vua và văn võ bá quan trong triều cùng hàng ngàn người dân đột nhiên mắc một chứng bệnh thời khí như sổ mũi, hắt hơi, đau nhức chân tay mình mẩy. Vua Lý Thần Tông đã hạ chiếu cho pháp sư Giới Không Thiền Sư lập đàn tế lễ, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm mà ngày một lan rộng. Các quan ngự y được lệnh sưu tầm dược liệu để chế ra những phương thuốc trị bệnh. Sau một thời gian chạy chữa, các chứng bệnh lui dần, duy chỉ còn chứng ho, mất tiếng là dai dẳng kéo dài đến tận giáp Tết Nguyên đán. Nhà vua phải xuống chiếu cho nhân dân cả nước xem ai biết môn thuốc gì chữa khỏi chứng ho kéo dài này sẽ được trọng thưởng. Chiếu chỉ ban hành được vài ngày thì có một nông dân tên là Hoàng Quyết xin dâng lên nhà vua một vị thuốc dân gian, đó là quả quất luyện với đường phèn để chữa bệnh. Nhà vua bèn dùng thử thấy thuốc vừa chua, vừa ngọt, lại cay tê, đắng đắng, thơm mùi quất, chỉ trong hai ngày là khỏi bệnh. Bài thuốc được phổ biến rộng rãi trong nhân dân và từ đó, cây quất cũng được trồng và dùng làm thuốc chữa bệnh tại kinh thành Thăng Long.

 

Quất – cây cảnh ngày Tết, quả để ăn và làm thuốc chữa bệnh

Từ xa xưa, trong dịp Tết Nguyên đán, quất được dùng làm cây cảnh trang trí trong nhà. Những quả quất màu vàng au hoặc đỏ cam tròn trĩnh và xinh xắn xen lẫn lá xanh dày tượng trưng cho mùa xuân đầy sức sống và sự vươn lên.

Quất chẳng những là cây cảnh của mùa xuân, từ quả quất chín mọng, qua bàn tay khéo léo của con người được chế biến thành mứt quất, một món ăn của ngày Tết, nếu một lần được thưởng thức sẽ chẳng bao giờ quên bởi hương vị đặc trưng: ngọt, thơm, cay dịu… Quất còn là vị thuốc chữa được nhiều bệnh.

Quả quất có mùi thơm, vị ngọt, chua và tinh dầu thơm cay của vỏ. Quả quất được dùng dưới dạng quả còn non hoặc đã chín.

Theo Đông y, quả quất vị ngọt chua, tính ấm, vào các kinh phế, vị, can. Nó có công năng hóa đảm, trị ho, giải uất, tiêu thực, giải rượu. Vỏ có tác dụng mạnh hơn. Quất để càng lâu càng tốt. Hạt quất có tác dụng giảm ho, cầm máu, chống nôn, lá quất có nhiều tinh dầu, có tác dụng chữa cảm mạo phong hàn rất tốt.

 

Những bài thuốc chữa bệnh bằng quất

Cảm mạo: Lá quất 30g, đổ 3 bát nước sắc còn 1 bát, hòa đường vừa đủ, uống lúc nóng.

Nôn mửa: Vỏ quất, gừng tươi, đất nung mỗi thứ 9g, sắc uống.

Nghẹn: Vỏ quất 20g, sấy khô, tán thành bột, sắc uống nóng.

Sa nang sưng đau: Rễ quất 15 – 16g, sắc uống.

Ho nhiều đờm: Quất 5 quả, đường phèn vừa đủ, hấp cách thủy, ngày ăn 2 lần, liền trong 3 ngày.

 

 

Ho gà trẻ em: Quất 10g, gừng tươi 6g, thiên trúc hoàng 6g, sắc uống mỗi ngày 1 lần.

Ho do phế nhiệt: Dùng quả quất với củ cải ép lấy nước uống.

An thần giảm ho: Quất 2 quả (bỏ vỏ, hạt, vách múi), bột ngó sen một ít, đường 100g, một ít hoa quế, nấu chè ăn.

Chữa hậu sản, phù nề, vàng da: Quả quất non 50g, nghệ vàng 100g, nghệ đen 100g, hương phụ 100g, cặn nước tiểu 5g. Tất cả thái mỏng, phơi khô, tán bột mịn, trộn với mật ong làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10 viên.

Nước giải khát có tác dụng bổ, dễ tiêu: Quả quất chín 1kg rửa sạch, để ráo nước. Dùng kim sạch châm sâu vào quả 5 – 6 lỗ rồi cho vào lọ rộng miệng cùng với đường kính 2kg; cứ một lớp quất lại một lớp đường. Đậy kín, để trong 7 ngày, được dịch quất đường (sirô quất) màu vàng mùi thơm. Khi dùng, lấy 1 – 2 thìa to sirô này pha với 150ml được đun sôi để nguội. Khuấy đều rồi uống.

Chữa ho lâu ngày không khỏi: Hạt quất 10g, lá thạch xương bồ 10g, thêm 20g đường phèn hấp cơm, uống 2 – 3 lần mỗi ngày, mỗi lần 5 – 10ml (1 thìa café).

Chữa nôn ra máu: Hạt quất 20g, bóc bỏ vỏ lấy nhân, sao vàng, giã nhỏ, sắc lấy nước uống 2 lần/1 ngày. Cần chú ý tránh nhầm lẫn giữa hạt quất và hạt quýt (y học cổ truyền gọi là quất hạch).

Ngoài ra, trong vỏ của quất, cam, quýt có chất tinh dầu giúp ngăn ngừa phát sinh ung thư gan, thực quản, đại tràng, da… Các nhà khoa học Nhật Bản cho biết, ăn quất cả vỏ sẽ cho vitamin C, chất xơ rất có lợi cho tiêu hóa và hạ được cholesterol, làm vững chắc thành mạch, chữa bệnh tăng huyết áp.

Lương y Hoài Vũ

 

]]>
Những cây thuốc chứa hợp chất berberin http://tapchisuckhoedoisong.com/nhung-cay-thuoc-chua-hop-chat-berberin-2040/ Wed, 18 Jul 2018 04:06:48 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/nhung-cay-thuoc-chua-hop-chat-berberin-2040/ [...]]]>

kháng virut, chống ung thư, lợi mật, chống loét đường tiêu hóa, hạ huyết áp; phòng ngừa xơ vữa động mạch, hạ cholesterol máu và kháng một số nấm ngoài da…

Berberin được dùng nhiều để trị các bệnh đường ruột: viêm đại tràng, lỵ; bệnh gan mật: viêm gan vàng da; đau mắt do viêm màng kết mạc; bệnh ngoài da: viêm tai chảy mủ, nước ăn chân, ngứa do nấm… Hiện berberin được bào chế dưới dạng viên nén để trị các bệnh viêm nhiễm nội tạng hoặc dung dịch thuốc nhỏ mắt, thuốc bột bôi xoa trị lở, ngứa, nấm ngoài da. Để có berberin, người ta phải tiến hành chiết xuất, phân lập từ vàng đắng, hoàng bá và các loài hoàng liên… Các dược liệu chứa hoạt chất berberin được sử dụng nhiều trong YHCT với tác dụng thanh nhiệt táo thấp, thanh nhiệt giải độc hoặc tư âm giáng hỏa…

Vàng đắng (Coscinium fenestratum (Gaertn.) Colebr., họ Tiết dê (Menispermaceae): là loại dây leo, ruột có màu vàng, vị rất đắng nên có tên gọi vàng đắng, thường thấy ở các tỉnh Thừa  Thiên Huế, Đà Nẵng, Kon Tum, Gia Lai… Thân và rễ chứa hợp chất berberin tới 3,5% và acid palmitic, sitosterol…

YHCT thường dùng rễ và thân cây trị các bệnh đường ruột: Tiêu chảy, lỵ trực khuẩn, sốt vàng da, sốt rét. Ngày dùng 10-16g dạng thuốc sắc hay thuốc bột.

Hoàng bá (Phellodendron  amurense Rupr.), họ Cam (Rutaceae): được nhập trồng ở Sa Pa và Hà Nội. Vỏ thân chứa hợp chất berberin và palmatin, jatrorrhizin… Bộ phận dùng là vỏ thân  (Cortex Phellodendri), khi dùng, cạo sạch lớp bẩn bên ngoài, thái phiến, sao vàng. Dùng dưới dạng nước sắc, ngày  6-12g.

Trong YHCT, hoàng bá dùng trị các chứng sốt do âm hư hoặc đau nóng âm ỉ trong xương, ra mồ hôi trộm, viêm tiết niệu, lỵ, hoàng đản, mụn nhọt, lở ngứa.

 

Cây và vị thuốc hoàng liên chân gà.

Cây và vị thuốc hoàng liên chân gà.

Hoàng liên chân gà hay còn gọi là Xuyên liên (Coptis chinensis Franch.) hoặc (Coptis quinquesecta Wang.), họ hoàng liên (Ranunculaceae): thường mọc ở vùng núi Sa Pa  (Lào Cai) và Quản Bạ (Hà Giang). Tuy nhiên, hiện vẫn phải nhập từ Trung Quốc. Để có nguồn dược liệu hoàng liên, nhất thiết phải trồng trọt với quy mô lớn. Trên thực tế, người ta dùng thân rễ của hoàng liên (Rhizoma Coptidis) để làm thuốc. Ngoài berberin với hàm lượng lớn (4%) còn có các ancaloid khác như palmatin, columbamin…

Cách chế biến hoàng liên đơn giản nhất là sao vàng, chích rượu, chích nước gừng hoặc nước ngô thù du với mục đích tăng thêm tính ấm cho vị thuốc để khí vị của hoàng liên có thể “thăng đề”, tức di chuyển lên các bộ phận ở thượng tiêu để điều trị các bệnh như viêm tai, viêm mắt… Hoặc chích giấm ăn, chích dịch mật lợn để trị các bệnh thuộc gan, mật như viêm gan hoàng đản, viêm túi mật, sốt rét… Liều dùng 2-4g/ngày, dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột.

Hoàng liên gai: Trong họ hoàng liên gai (Berberidaceae), có nhiều loài như hoàng mộc (Berberis wallichiana DC.), hoàng liên gai nhím (Berberis  julianae Schneid). Những loài này đều có  ở  Lào Cai, Sa Pa, Mường Khương. Rễ và thân cây hoàng liên gai chứa berberin với hàm lượng 3-4% và các ancaloid khác như palmatin, jatrorrhizin…

Cũng giống như hoàng liên chân gà, hoàng liên gai có vị đắng, tính hàn, trị các bệnh đường tiêu hóa: rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy, kiết lỵ; hoặc chữa đau họng, đau răng, lợi. Cũng có thể dùng ngoài để rửa các vết thương, mụn nhọt…

Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC.): thường có ở Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Bắc Cạn, Lâm Đồng. Bộ phận dùng là rễ, thân, lá và quả. Từ thân, lá, rễ có berberin và một số alcaloid như umbellatin, nephrotin. Hoàng liên ô rô có tác dụng thanh nhiệt ở các tạng phế, vị can, thận. Dùng trị ho lao, sốt, khạc ra máu, đau mỏi lưng gối, chóng mặt ù tai, mất ngủ. Liều dùng 8-12g. Nếu dùng trị viêm gan vàng da, viêm ruột tiêu chảy, đau mắt, liều dùng có thể tới 20g.

Ngoài ra, berberin còn có trong rễ cây táo rừng (Rhamnus oenoplia L.), họ táo ta (Rhamnaceae). Táo rừng phổ biến ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Sơn La, Lạng Sơn… Bộ phận dùng là rễ, vỏ và lá cây. Dân gian thường dùng rễ ngâm rượu, chấm vào nơi răng, lợi bị viêm đau. Hạt táo rừng trị mất ngủ, tiêu chảy, kiết lỵ, lá chữa chóng mặt, buồn nôn.

Lá táo ta (Ziziphus mauritiana  lam.), họ táo ta (Rhamnaceae) cũng chứa hợp chất berberin. Lá táo sao vàng, sắc uống với liều từ 20-40g để trị ho, khó thở. Lá tươi dùng ngoài trị lở loét, mụn nhọt.

GS.TS. Phạm Xuân Sinh

]]>