bệnh sỏi tiết niệu – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com Thông tin sức khỏe cho cộng đồng Sun, 05 Aug 2018 05:32:42 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.5 http://tapchisuckhoedoisong.com/wp-content/uploads/2018/07/cropped-Icon-browser-32x32.png bệnh sỏi tiết niệu – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com 32 32 Chớ xem thường sỏi tiết niệu http://tapchisuckhoedoisong.com/cho-xem-thuong-soi-tiet-nieu-13742/ Sun, 05 Aug 2018 05:32:42 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/cho-xem-thuong-soi-tiet-nieu-13742/ [...]]]>

Sỏi tiết niệu là một bệnh gặp chủ yếu ngoài tuổi trung niên, nam giới mắc nhiều hơn nữ giới và là bệnh hay tái phát.

Những triệu chứng chính

Đường tiết niệu gồm thận (2 quả thận), niệu quản (2 niệu quản), bàng quang và niệu đạo. Sỏi đường tiết niệu có thể xảy ra ở bất kỳ bộ phận nào của đường tiết niệu. Bệnh có thể diễn biến dữ dội hoặc âm thầm, tiềm tàng, có trường hợp tình cờ phát hiện bị sỏi thận, sỏi niệu quản hoặc sỏi bàng quang nhân chụp phim hoặc siêu âm ổ bụng vì một bệnh khác, hoặc một lý do khác. Tuy vậy, phần lớn sỏi đường tiết niệu có biểu hiện lâm sàng khá phong phú. Triệu chứng thường gặp nhất là đau bụng, đau, mỏi vùng thắt lưng, nhất là vùng bụng phía phía bộ phận tiết niệu có sỏi.

Đau bụng có thể kèm theo buồn nôn hoặc nôn, trướng bụng. Đau vùng thắt lưng có khi âm ỉ suốt ngày, suốt tháng nhưng có khi cơn đau dữ dội mà thường gọi là cơn đau quặn thận (đau lăn lộn không thể ngồi, nằm yên được).

Trong các cơn đau quặn thận thường do sỏi tắc ở đài, bể thận hoặc sỏi đã di chuyển xuống niệu quản, nằm ở đó hoặc xuống bàng quang. Cơn đau quặn thận xuất phát từ vùng thắt lưng, lan dọc theo đường đi của niệu quản đến vùng bẹn và vùng sinh dục. Kèm theo cơn đau là đái buốt, đái rắt, đái són. Nước tiểu trong các cơn đau thường đục, đỏ, có khi có máu mà mắt thường có thể nhìn thấy được (gọi là đái máu đại thể ), nhưng cũng có khi đái ra máu nhưng mắt thường không nhìn thấy được (đái máu vi thể), phải xét nghiệm nước tiểu, soi kinh hiển vi mới thấy có hồng cầu. Trước hoặc trong cơn đau có thể có sốt cao, rét run và nước tiểu đục (do bị nhiễm khuẩn gây viêm đài thận, bể thận hoặc viêm bàng quang hoặc do cặn thận).

Tuy vậy, cũng có những trường hợp sỏi tiết niệu có nhiễm khuẩn nhưng bệnh nhân không sốt hoặc sốt nhẹ nhưng nước tiểu luôn luôn đục, thường gặp ở người cao tuổi, sức đề kháng kém (nằm lâu, ít vận động), uống ít nước. Nuớc tiểu đục có thể là toàn bãi hoặc có thể chỉ có ở đầu bãi hoặc cuối bãi. Nếu có tổn thương ở thận (đài, bể thận) thì thường có phù ở mi mắt hoặc có phù ở mắt cá chân (ấn lõm).

Để chẩn đoán sỏi tiết niệu, ngoài khám lâm sàng, dựa vào tiền sử bệnh thì cần chụp X-quang hệ tiết niệu, siêu âm luôn được áp dụng. Tuy vậy, có hơn 10% sỏi tiết niệu thuộc loại không cản quang và vì vậy khi chụp X-quang hệ tiết niệu không chuẩn bị rất có thể không phát hiện thấy sỏi. Do đó, khi có các triệu chứng lâm sàng nghi là sỏi đường tiết niệu, chụp X-quang không thấy sỏi thì chưa nên kết luận là không có sỏi tiết niệu. Để khắc phục tình trạng này thì nên chụp niệu đồ tĩnh mạch sẽ cho thấy hình ảnh sỏi tiết niệu hoặc chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc cộng hưởng từ (MRI) để phát hiện các loại sỏi nhỏ.

Hiện nay, siêu âm đang được ứng dụng khá rộng rãi giúp đáng kể cho việc xác định sỏi đường tiết niệu. Ưu điểm của phương pháp này là nhanh cho biết được số lượng, kích thước và vị trí của sỏi, và biết được tình trạng đường tiết niệu (đài bể thận, niệu quản giãn hay không, niêm mạc bàng quang có phù nề hay không…).

Xét nghiệm nước tiểu cho biết một số thông số liên quan đến sỏi đường tiết niệu, sỏi thuộc loại gì (sỏi canxi oxalat hay hay canxi phốt phát hay sỏi amoni-magie hay sỏi axít uric…). Xác định được trong nước tiểu có hồng cầu, bạch cầu, trụ niệu hay trụ hạt? Trong những trường hợp cần thiết thì nuôi cấy nước tiểu để xác định có bị nhiễm khuẩn hay không và vi khuẩn gây bệnh thuộc loại gì, nhạy cảm với loại kháng sinh nào nhất.

Một số bệnh dễ chẩn đoán nhầm với bệnh sỏi đường tiết niệu

Trong các cơn đau quặn thận cần chẩn đoán với bệnh tắc ruột, sỏi đường mật, sỏi tụy, viêm tụy cấp. Nếu cơn đau bụng về phía bên hố chậu phải (thường gặp trong sỏi niệu quản phải khoảng 1/3 dưới, nơi niệu quản bị gấp khúc), có sốt nhẹ, nôn hoặc buồn nôn cần lưu ý đến bệnh của ruột thừa. Đau vùng hố chậu phải còn có thể viêm đại tràng (nhất là viêm đại tràng co thắt, đại tràng xích ma); ở phụ nữ có thể là do viêm phần phụ hoặc u nang buồng trứng đang bị xoắn hoặc đã vỡ hoặc có thể chửa ngoài dạ con (phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có quan hệ tình dục không dùng biện pháp tránh thai). Biến chứng của sỏi tiết niệu khá phức tạp, nhẹ thì đau thắt lưng, rối loạn tiểu tiện (đái rắt, són), nặng hơn là sỏi từ thận rơi xuống niệu quản làm đau dữ dội, làm tổn thương niệu quản gây chảy máu hoặc bị nhiễm trùng gây viêm thận ứ mủ. Sỏi niệu quản có thể làm ử đọng nước tiểu gây dãn đài bể thận gây suy thận. Suy thận là bệnh điều trị gặp không ít khó khăn và làm tăng huyết áp, tăng ure máu rất nguy hiểm.

Nguyên tắc điều trị và phòng bệnh

Khi có đau vùng thắt lưng hoặc có kèm sốt, đái rắt, buốt, nước tiểu đục hoặc đỏ thì nên đi khám bệnh càng sớm càng tốt để được chẩn đoán và điều trị kịp thời, nếu để muộn có thể gây biến chứng. Đi khám bệnh để được chẩn đoán chính xác, có hướng điều trị và tư vấn cho người bệnh tránh để bị bệnh nặng. Bác sĩ khám bệnh sẽ có hướng điều trị thích hợp cho từng loại sỏi tiết niệu và tùy lứa tuổi, sức khỏe của từng người bệnh với phương châm là làm sao hết sỏi nhưng vẫn giữ được bộ phận tiết niệu và chức năng của hệ tiết niệu không bị ảnh hưởng là điều lý tưởng nhất. Bởi vì, giải quyết sỏi đường tiết niệu cũng có nhiều phương pháp (điều trị nội khoa, tán sỏi, mổ nội soi, mổ phanh).

Khi bị sỏi tiết niệu, cần uống nhiều nước từ 1,5 – 2,0 lít, kết hợp với dùng thuốc nhằm đào thải sỏi ra ngoài bằng đường tiểu. Tránh để nhiễm trùng đường tiết niệu, nhất là nữ giới, do cấu tạo sinh lý đặc biệt của lỗ đái rất dễ gây nhiễm trùng đường tiết niệu ngược dòng. Vì vậy, nên vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục ngoài hàng ngày hoặc đã điều trị hết sỏi thì nên chọn chế độ ăn hợp lý, hạn chế ăn các loại thức ăn giàu canxi (tôm, cua, ốc). Những người bệnh bị gút nên định kỳ kiểm tra đường tiết niệu như chụp X-quang, xét nghiệm nước tiểu và uống thuốc điều trị gút theo đơn của bác sĩ khám bệnh một cách nghiêm túc.

TTƯT.PGS.TS. BÙI KHẮC HẬU

]]>
Phòng bệnh sỏi tiết niệu http://tapchisuckhoedoisong.com/phong-benh-soi-tiet-nieu-11469/ Wed, 25 Jul 2018 10:00:32 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/phong-benh-soi-tiet-nieu-11469/ [...]]]>

Sỏi tiết niệu là một bệnh thường gặp và có khả năng hay tái phát tại đường tiết niệu do sự kết thạch của một số thành phần trong nước tiểu ở điều kiện lý hóa nhất định. Bệnh có thể phòng ngừa được nếu thực hiện các biện pháp chủ yếu cơ bản nhằm hạn chế những yếu tố nguy cơ gây nên sỏi.

Qua phân tích thành phần hóa học của sỏi tiết niệu, các nhà khoa học ghi nhận sỏi canxi oxalat chiếm tỉ lệ cao nhất khoảng 70 – 80%, tiếp theo đến là loại sỏi calci phosphat, sỏi amoni magie phosphat, sỏi axít uric và sỏi cystin. Tuổi mắc bệnh thường gặp là từ 35 – 55, tuy nhiên thời điểm mắc bệnh có thể khác nhau tùy theo từng loại sỏi. Nam giới mắc bệnh sỏi tiết niệu thường gấp 3 lần nữ giới, tuy nhiên tỉ lệ bệnh cũng thay đổi tùy theo thành phần hóa học của sỏi. Tại các nước công nghiệp phát triển, loại sỏi axít uric có xu hướng xảy ra nhiều hơn so với các nước đang phát triển; ngược lại ở các nước đang phát triển thì loại sỏi amoni magie phosphat do nhiễm trùng lại thường chiếm tỉ lệ cao hơn.

Nguyên nhân hình thành sỏi tiết niệu

Sỏi tiết niệu được hình thành không phải do một bệnh riêng biệt là do biến chứng của nhiều loại bệnh, vì vậy sự phát sinh sỏi có nhiều nguồn gốc khác nhau, đặc biệt tùy thuộc vào từng loại sỏi. Tuy vậy theo các nhà khoa học, có một số nguyên nhân chính tạo nên sỏi tiết niệu được ghi nhận bao gồm yếu tố di truyền, mắc tật dị dạng bẩm sinh, yếu tố địa dư và khí hậu, chế độ ăn uống…

Về yếu tố di truyền: đối với sỏi cystin và sỏi axít uric, yếu tố di truyền đóng một vai trò quan trọng. Sỏi cystin xuất hiện ở bệnh nhân đi tiểu cystin kiểu gen đồng hợp tử; vai trò di truyền của trường hợp sỏi axít uric cũng đã được xác định rõ ràng. Đối với sỏi canxi, yếu tố di truyền khó xác định; tuy nhiên các nhà khoa học cũng ghi nhận có những trường hợp sỏi canxi được phát hiện ở trong một số người của dòng họ bị mắc bệnh; ngoài ra yếu tố cường canxi niệu thường tạo ra sỏi có khả năng di truyền theo kiểu đa gen.

Phòng bệnh sỏi tiết niệuSỏi tiết niệu có thể ở nhiều vị trí khác nhau trong đường tiết niệu

Về các tật dị dạng bẩm sinh: trên thực tế, những tật dị dạng bẩm sinh và mắc phải là nguyên nhân thuận lợi để tạo nên sỏi do tình trạng ứ đọng và nhiễm khuẩn. Tuy vậy, những nguyên nhân chủ yếu là do sự rối loạn chuyển hóa các thành phần được bài tiết qua thận. Các tật dị dạng bẩm sinh đường tiết niệu thường có nhiều dạng khác nhau, phổ biến là tình trạng hẹp chỗ nối bể thận và niệu quản, hẹp niệu quản, phình to niệu quản, hẹp cổ bàng quang, thận móng ngựa, thận đa nang, lao tiết niệu…

Về yếu tố địa dư và khí hậu: yếu tố này đã được các nhà khoa học đề cập đến. Ở nơi có khí hậu nóng và khô tại vùng sa mạc hoặc vùng nhiệt đới là yếu tố môi trường tác động rất nhiều đến sự phát sinh hình thành sỏi tiết niệu.

Về chế độ ăn uống: đây cũng là một trong những nguyên nhân tác động trực tiếp đến bệnh sỏi tiết niệu như sử dụng các loại thức ăn, thực phẩm có chứa nhiều chất purin, oxalat hoặc canxi, phosphat…

Ngoài ra còn có một số các nguyên nhân khác như: sỏi tiết niệu do nhiễm khuẩn sẽ hình thành loại sỏi amoni magie phosphat; đồng thời bị gãy xương, nằm bất động lâu ngày cũng sẽ tạo nên những điều kiện thuận lợi để hình thành nên sỏi tiết niệu.

Vị trí của sỏi trong đường tiết niệu và triệu chứng lâm sàng

Sỏi được hình thành trong đường tiết niệu sẽ gây ra nhiều tình huống khác nhau tùy theo kích thước, vị trí của sỏi và những phản ứng của hệ tiết niệu đối với sỏi. Sỏi ở thận sẽ di chuyển xuống niệu quản, vào bàng quang và bị tống ra ngoài qua niệu đạo nếu kích thước của sỏi dưới 4mm và hình thù nhẵn mịn. Nếu sỏi cố định ở đài thận thì nhu mô thận bị lệ thuộc trực tiếp sẽ bị giãn rộng và mỏng dần. Sỏi ở bể thận có thể di động hoặc cố định, thường gây tắc chỗ nối bể thận và niệu quản. Sỏi ở bể thận sẽ làm giãn các đài bể thận, nhu mô thận mỏng và suy giảm chức năng. Sỏi niệu quản rất hay gặp, đặc biệt là ở vị trí 1/3 phía dưới niệu quản. Nếu sỏi niệu quản ở cả hai bên sẽ gây nên tình trạng vô niệu. Sỏi ở bể thận hay ở niệu quản gây ra thận ứ nước và nếu kèm theo nhiễm khuẩn thì thận sẽ bị hủy hoại nhanh chóng. Trong một số trường hợp, thận ứ nước gây nên tình trạng nhiễm khuẩn huyết. Sỏi ở bàng quang thường là thứ phát do u xơ tuyến tiền liệt, hẹp niệu đạo, hẹp bao quy đầu. Sỏi bàng quang thường gặp trong bàng quang thần kinh. Sỏi niệu đạo là do sỏi từ trên thận và bàng quang đi xuống. Thực tế rất ít trường hợp sỏi bị kẹt lại trong niệu đạo, trừ khi niệu đạo bị hẹp, bị rò hay có túi thừa niệu đạo.

Các triệu chứng lâm sàng của bệnh sỏi tiết niệu có thể diễn biến tiềm tàng và âm thầm nhưng phần lớn trường hợp thường có những biểu hiện lâm sàng rõ nét. Đau vùng thắt lưng là triệu chứng hay gặp, đặc biệt lúc sỏi di chuyển và gây tắc đường tiết niệu. Triệu chứng cơn đau quặn thận do sỏi bị tắc ở bể thận hay niệu quản rất điển hình với cơn đau khá dữ dội xuất phát từ thắt lưng lan xuống dưới theo đường đi của niệu quản đến vùng bẹn và vùng sinh dục, kèm theo đi tiểu buốt, nước tiểu màu đỏ; có thể đau trướng bụng, nôn mửa. Dấu hiệu đi tiểu ra máu toàn bộ thường kèm theo cơn đau, xuất hiện lúc vận động mạnh và sẽ giảm bớt khi nằm nghỉ. Biểu hiện đi tiểu với nước tiểu đục khi có tình trạng nhiễm khuẩn kèm theo; nhiều khi bệnh nhân không sốt mà chỉ thấy dấu hiệu đi tiểu với nước tiểu đục; có khi bệnh nhân có thể sốt cao, rét run, kèm theo đau vùng thắt lưng biểu hiện của viêm thận – bể thận. Triệu chứng phù, nôn mửa, ăn không ngon thường xảy ra trong trường hợp bị suy thận nặng. Thậm chí có trường hợp bị vô niệu do sỏi làm tắc đường tiết niệu của thận duy nhất đang hoạt động. Khám lâm sàng ghi nhận các điểm đau ở vùng thắt lưng hay dọc theo đường đi của niệu quản, không ít trường hợp có dấu hiệu chạm thận hay bập bềnh thận; nước tiểu có màu hồng, đỏ, có khi đục.

Tiến triển bệnh lý và phòng bệnh

Sỏi tiết niệu thường gây nên nhiều biến chứng do tắc đường tiết niệu, do nhiễm khuẩn; sỏi có thể tái phát và phát triển ở cả hai bên. Nếu bệnh nhân không được phát hiện, chẩn đoán và điều trị kịp thời thì chức năng thận sẽ bị giảm sút do tình trạng ứ nước thận, ứ mủ thận. Đối với toàn thân, sỏi gây tăng huyết áp, nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn và dễ dẫn đến tử vong. Hiện nay nhờ những tiến bộ của khoa học, y học trong phương pháp điều trị ngoại khoa và nội khoa cũng như phát hiện bệnh sớm và phòng bệnh có kết quả nên biến chứng sỏi tiết niệu ngày càng giảm.

Việc phòng bệnh sỏi tiết niệu chủ yếu được thực hiện nhằm hạn chế các yếu tố nguy cơ gây nên sỏi. Lưu ý khuyến khích bệnh nhân uống nước nhiều để lượng nước tiểu được bài tiết mỗi ngày ít nhất phải được 1,5 lít. Nếu thực hiện được như vậy, nước tiểu luôn luôn ở dưới giai đoạn bão hòa tránh nguy cơ hình thành sỏi. Cần tránh tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu, nhất là đối với giới nữ. Phải giải quyết những nguyên nhân gây nên tình trạng ứ đọng nước tiểu do dị tật bẩm sinh hoặc bị mắc phải do các bệnh khác gây ra ở trẻ em cũng như ở người lớn. Nên điều chỉnh độ pH của nước tiểu tùy theo loại sỏi mà bệnh nhân mắc phải như kiềm hóa nước tiểu trong trường hợp bị sỏi cystin và axít uric, toan hóa nước tiểu trong trường hợp bị sỏi amoni magie phosphat. Đối với từng loại bệnh, phải chú ý loại trừ những nguyên nhân tạo thuận lợi cho sự hình thành của sỏi như từ chế độ ăn uống cho đến việc điều chỉnh các yếu tố sinh lý hóa của từng bệnh nhân, kể cả các trường hợp phẫu thuật cần thiết như cắt bỏ khối u tuyến cận giáp trạng, phẫu thuật tạo hình để loại bỏ các nguyên nhân gây ứ đọng đường tiết niệu.

TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH

]]>