bệnh lao – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com Thông tin sức khỏe cho cộng đồng Wed, 19 Dec 2018 14:24:38 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.4 http://tapchisuckhoedoisong.com/wp-content/uploads/2018/07/cropped-Icon-browser-32x32.png bệnh lao – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com 32 32 Phát hiện và điều trị bệnh lao ở trẻ em http://tapchisuckhoedoisong.com/phat-hien-va-dieu-tri-benh-lao-o-tre-em-17430/ Wed, 19 Dec 2018 14:24:38 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/phat-hien-va-dieu-tri-benh-lao-o-tre-em-17430/ [...]]]>

Những dạng lao ở trẻ em

Lao khởi đầu (lao sơ nhiễm): Thường gặp nhiều nhất, có thể xảy ra ở trẻ dưới 14 tuổi, nhưng thông thường xảy ra ở trẻ dưới 5 tuổi và chưa được chủng ngừa BCG. Khi bị sơ nhiễm lao thường trẻ không có triệu chứng, hoặc có triệu chứng của cảm cúm thoáng qua, hay nóng sốt mệt mỏi… Một số trường hợp diễn tiến nhẹ và tự khỏi nếu trẻ có sức đề kháng tốt. Trẻ bị sơ nhiễm lao thường có biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, sụt cân, sốt nhẹ về chiều, thỉnh thoảng có sốt cao. Ngoài ra còn có thể có ho khan, khạc đờm, đau ngực, khó thở. Tùy theo trẻ mắc loại lao gì mà bệnh cảnh còn có thêm những triệu chứng điển hình khác.

Lao cấp tính: Lao màng não, lao kê cấp tính là hai biến chứng nặng và sớm của sơ nhiễm lao, dễ đưa đến tử vong nếu không biết và để lại di chứng trầm trọng nếu chẩn đoán trễ. Bệnh xảy ra ở các lứa tuổi, nhưng nhiều nhất ở trẻ không chủng ngừa BCG, trước 2 tuổi.

Lao màng não: Xảy ra từ 2-12 tháng sau sơ nhiễm lao, báo hiệu với triệu chứng sốt nhẹ, thay đổi tính nết. Sau đó một tuần sốt 38oC, nhức đầu, ói mửa, khám thấy có cứng cổ và đôi khi có dấu hiệu tổn thương thần kinh, co giật, hôn mê, lé mắt, động kinh, sụp mí mắt.

Nếu chẩn đoán chậm đưa đến di chứng nặng như di chứng tâm thần (thiểu năng trí tuệ, rối loạn tính tình, động kinh); yếu liệt nửa người, tay chân co rút, mù mắt, điếc…

Phát hiện và điều trị bệnh lao ở trẻ emTiêm vắc-xin phòng lao cho trẻ.

Lao kê: Là lao cấp ở phổi, xuất hiện trong những tuần lễ đầu sau sơ nhiễm lao với triệu chứng sốt cao, mạch nhanh, ói mửa, đau bụng, tiêu chảy, không có nốt hồng ban trên bụng (khác thương hàn) và luôn luôn có dấu hiệu hô hấp khó thở, tím tái. Trẻ bị lao kê thường dễ dẫn đến lao màng não.

Lao đường hô hấp: Lao màng phổi và phổi thường gặp ở trẻ lớn, gần tuổi dậy thì hơn là trẻ nhỏ. Thường có triệu chứng ho kéo dài, sốt nhẹ, sụt cân, ăn uống kém…

Lao ngoài phổi: Thường là biến chứng chậm hơn sau sơ nhiễm lao. Có nhiều dạng lao ngoài phổi như lao cột sống: giai đoạn đầu trẻ thường có biểu hiện đau vùng cột sống rồi từ từ gù lưng; lao xương, khớp: trẻ bị sưng đau khớp và chảy mủ ở xương khớp rò ra ngoài da; lao hệ niệu: trẻ có triệu chứng đi tiểu ra máu, thường có kèm theo sưng tinh hoàn – nếu là bé trai; lao hạch: nổi hạch thường từng chùm, dính nếu để trễ sẽ gây rò mủ làm sẹo xấu; lao ruột: đi tiêu lỏng hoặc đi tiêu ra đờm, máu kéo dài.

Chẩn đoán và điều trị bệnh

Ở trẻ em việc chẩn đoán lao, tìm ra vi trùng lao thường khó hơn so với người lớn. Ngay cả bản thân trẻ bị lao phổi cũng khó tìm ra vi trùng lao vì trẻ chưa hoặc không biết khạc đờm. Đối với lao sơ nhiễm, trẻ có những triệu chứng, biểu hiện giống như bệnh cảnh viêm đường hô hấp nên rất khó chẩn đoán.

Về điều trị lao ở trẻ em cũng giống như của người lớn. Tuy nhiên, phụ huynh phải tuân thủ điều trị cho con em mình đúng với hướng dẫn của thầy thuốc, điều trị đủ thời gian (6-9 tháng), đủ liều lượng thuốc, đúng phác đồ thì bệnh mới ổn định.

Phòng bệnh lao cho trẻ thế nào?

Bệnh lao ảnh hưởng chủ yếu đến phổi nhưng cũng có thể ảnh hưởng tới các bộ phận khác của cơ thể. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ thường chịu những tác động nặng nề do mắc các bệnh như viêm màng não lao (gây mù, điếc, liệt hay tâm thần), mắc lao đa kháng thuốc (đòi hòi điều trị kéo dài, tốn kém với các tác dụng phụ do thuốc rất nặng) và cũng rất dễ tử vong. Ít nhất một nửa triệu trẻ sơ sinh và trẻ em bị bệnh lao mỗi năm và khoảng 70.000 trẻ tử vong vì căn bệnh này. Trẻ dưới 3 tuổi và những trường hợp suy dinh dưỡng hay suy giảm hệ miễn dịch là những đối tượng dễ mắc lao nhất.

Thuốc chủng ngừa duy nhất hiện đang có sẵn cho bệnh lao là vắc-xin BCG (Bacillus Calmette-Guérin). Tuy nhiên, BCG chỉ tạo sự bảo vệ đến khi trẻ 15 tuổi và không an toàn khi sử dụng ở trẻ em sống chung với HIV. Do đó, trẻ em đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi hay trẻ có cơ địa suy giảm miễn dịch (suy dinh dưỡng, nhiễm HIV…) cần được tầm soát và điều trị dự phòng bệnh lao khi có tiếp xúc với người bệnh lao. Việc dự phòng lao có thể giảm 70-80% khả năng bị bệnh lao cho trẻ.

Các bậc phụ huynh hãy đưa con em đi tiêm phòng vắc-xin BCG theo Chương trình Tiêm chủng mở rộng; phát hiện và điều trị sớm những người trong gia đình bị bệnh lao, tránh cho trẻ tiếp xúc với nguồn lây lao; giữ gìn sức khỏe cho trẻ, cho trẻ ăn đủ chất để chống suy dinh dưỡng; giữ gìn môi trường sống tốt, nhà cửa thoáng đãng, sạch sẽ…

Trong gia đình có người bị lao thì cách ly trẻ, không nên tiếp xúc gần gũi (hôn hít) với trẻ… Khi trẻ có triệu chứng nghi bị lao (ho sốt kéo dài, sút cân hoặc không lên cân, ra mồ hôi trộm…) cần đưa ngay đến cơ sở y tế chuyên khoa để khám và điều trị đúng theo công thức của Chương trình Chống lao quốc gia, đảm bảo theo nguyên tắc DOST (hóa trị liệu ngắn ngày có kiểm soát).

BS. Xuân Đồng

]]>
Phòng ngừa bệnh lao – những điều cần biết http://tapchisuckhoedoisong.com/phong-ngua-benh-lao-nhung-dieu-can-biet-17281/ Mon, 10 Dec 2018 14:25:09 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/phong-ngua-benh-lao-nhung-dieu-can-biet-17281/ [...]]]>

Bệnh lao lây truyền qua đường hô hấp do người lành hít phải các hạt khí dung có chứa vi khuẩn lao của người mắc lao phổi giai đoạn tiến triển, ho khạc, hắt hơi ra ngoài không khí. Những yếu tố liên quan đến sự lây truyền bệnh lao phụ thuộc số lượng vi khuẩn lao do người bệnh khạc ra và sự thông khí tại khu vực phơi nhiễm; thời gian tiếp xúc của người lành với các hạt khí dung bị nhiễm vi khuẩn lao; mức độ vi khuẩn càng nhiều, thời gian tiếp xúc thường xuyên tiên tục tỷ lệ lây nhiễm càng cao. Vì vậy để dự phòng bệnh lao cần áp dụng các biện pháp nhằm giảm nguy cơ nhiễm vi khuẩn lao và giảm nguy cơ từ nhiễm lao sang bệnh lao. Trong đó việc phát hiện sớm và điều trị khỏi cho người bệnh lao là biện pháp tốt nhất nhằm cắt giảm nguồn lây lao trong cộng đồng. Khuyến cáo của Chương trình Chống lao Quốc gia về dự phòng bệnh lao gồm biện pháp sau:

Giảm nguy cơ nhiễm vi khuẩn lao

Để giảm nguy cơ nhiễm lao cần kiểm soát vệ sinh môi trường tại cơ sở y tế và gia đình người bệnh.

Tại cơ sở y tế: Giảm mật độ các hạt nhiễm khuẩn trong không khí: bằng thông gió tốt, cửa đi và cửa sổ của buồng khám, khu chờ và buồng bệnh cần được mở cho thông gió tự nhiên hoặc dùng quạt điện đúng chiều để làm loãng các hạt nhiễm khuẩn và đẩy vi khuẩn ra ngoài, dưới ánh nắng mặt trời vi khuẩn lao sẽ dễ bị tiêu diệt; bố trí vị trí làm việc hợp lý theo chiều thông gió, không để không khí đi từ người bệnh đến cán bộ y tế; thay đổi hành vi của người bệnh (vệ sinh hô hấp) nhằm làm giảm các hạt nhiễm khuẩn ra môi trường như dùng khẩu trang khi tiếp xúc nói chuyện với người khác, khi hắt hơi, ho; khạc đờm vào giấy hoặc ca cốc, bỏ đúng nơi quy định; lấy đờm xét nghiệm đúng nơi quy định, tốt nhất là ngoài trời, môi trường thông thoáng.

Phòng ngừa bệnh laoSử dụng phương tiện bảo hộ cá nhân để giảm nguy cơ lây nhiễm lao.

Sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân đối với nhân viên y tế: Khẩu trang thông thường ít có tác dụng bảo vệ nhiễm vi khuẩn lao, những nơi có nguy cơ lây nhiễm cao cần dùng khẩu trang đạt chuẩn như loại N95 hoặc tương đương trở lên.

Giảm tiếp xúc nguồn lây: Nên có nơi chăm sóc điều trị riêng cho người bệnh lao phổi AFB(+), đặc biệt với lao phổi đa kháng thuốc; trong các cơ sở đặc biệt (trại giam, trung tâm chữa bệnh, giáo dục và lao động xã hội…) có thể có nhiều người nhiễm HIV khả năng lây nhiễm rất cao, cần cách ly thỏa đáng những người bệnh để điều trị mới tránh được các vụ dịch nghiêm trọng. Để bảo vệ cho người nhiễm HIV đến khám, cần xác định những người nghi lao (ho khạc) để hướng dẫn họ dùng khẩu trang, giấy che miệng, chuyển đến khu chờ riêng hoặc phòng cách ly (nếu có) và ưu tiên khám trước để giảm thời gian tiếp xúc.

Dự phòng lây nhiễm tại hộ gia đình: Người bệnh phải tuân thủ điều trị lao theo đúng hướng dẫn của thầy thuốc để đạt hiệu quả điều trị. Để tránh lây nhiễm lao cho người xung quanh, người bệnh cần đeo khẩu trang  khi tiếp xúc nói chuyện với người khác, khi ho, hắt hơi, khạc đờm vào khăn giấy rồi đốt, rửa tay xà phòng thường xuyên; đảm bảo vệ sinh môi trường nơi ở của người bệnh: thông khí tự nhiên cửa ra vào, cửa sổ…) có ánh nắng; thường xuyên phơi nắng đồ dùng cá nhân, chiếu, chăn màn.

Giảm nguy cơ chuyển từ nhiễm lao sang bệnh lao

Tiêm vắc-xin BCG (bacille calmette – Guerin) do Chương trình Tiêm chủng mở rộng thực hiện nhằm giúp cơ thể hình thành miễn dịch chống lại bệnh lao khi bị nhiễm lao. Để có tác dụng, cần tiêm đúng kỹ thuật, đúng liều lượng. Vắc-xin phải được bảo quản đúng, đảm bảo chất lượng trong toàn bộ dây chuyền đến từng liều sử dụng cho trẻ.

Chỉ định tiêm vắc-xin BCG: Với trẻ không nhiễm HIV được tiến hành cho trẻ sơ sinh và trẻ dưới 1 tuổi; đối với trẻ nhiễm HIV không có triệu chứng của bệnh HIV/AIDS.

Không tiêm vắc-xin BCG trong các trường hợp: Trẻ suy giảm miễn dịch bẩm sinh; nhiễm HIV có triệu chứng lâm sàng của HIV/AIDS;  thận trọng cân nhắc đối trẻ đẻ non thiếu tháng, đang nhiễm khuẩn cấp tính, sau một bệnh cấp tính, nhiễm virut cúm, sởi.

Trẻ  em được tiêm phòng lao bằng BCG có thể tránh được các thể lao nặng như lao kê, lao màng não. Nhưng dù đã tiêm phòng lao, ở thời kỳ chưa có miễn dịch, không nên để trẻ tiếp xúc với nguồn lây; khi  đã có miễn dịch rồi cũng hết sức hạn chế, không để trẻ cùng sống hay tiếp xúc với người ho khạc ra vi khuẩn lao, đồng thời tránh các bệnh nhiễm khuẩn khác làm suy sụp miễn dịch lao.

Điều trị dự phòng lao bằng isoniazid (lao tiềm ẩn)

Đối tượng: Tất cả những người nhiễm HIV (người lớn và trẻ em) đã được sàng lọc hiện không mắc bệnh lao tiến triển; trẻ em dưới 5 tuổi tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây là người bệnh lao phổi AFB(+). Phác đồ điều trị do bác sĩ chỉ định.

Theo dõi đánh giá: Đối với người lớn, cấp thuốc hàng tháng và đánh giá việc dùng thuốc 1 tháng/lần, nếu người bệnh bỏ trị, số liều bỏ trị ít hơn 50% tổng liều thì có thể bổ sung cho đủ, nếu số liều bỏ quá 50% tổng liều thì nên bắt đầu điều trị từ đầu sau bỏ trị. Đối với trẻ em, tái khám 1 lần/tháng, khi khám phải cân trẻ, đánh giá sự tuân thủ điều trị và tìm dấu hiệu tác dụng ngoài ý muốn của thuốc lao như vàng da, vàng mắt; điều chỉnh liều điều trị theo cân nặng hàng tháng.

Nếu trẻ xuất hiện các triệu chứng nghi lao trong khi điều trị lao tiềm ẩn, chuyển trẻ lên tuyến huyện khám phát hiện lao, nếu xác định trẻ không mắc lao, tiếp tục điều trị đủ liệu trình; nếu bỏ thuốc liên tục trong 2 tháng, muốn tiếp tục phải đăng ký điều trị lại từ đầu;

Đánh giá kết quả điều trị: Hoàn thành điều trị uống thuốc đủ 6 tháng liên tục hoặc đủ 180 liều thuốc isoniazid trong thời gian không quá 9 tháng; bỏ điều trị là không uống thuốc liên tục từ 2 tháng trở lên.

BS. Xuân Đồng

((Nguồn: Chương trình chống lao quốc gia))

]]>
Lao màng não và những nguy biến http://tapchisuckhoedoisong.com/lao-mang-nao-va-nhung-nguy-bien-16764/ Wed, 07 Nov 2018 14:28:02 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/lao-mang-nao-va-nhung-nguy-bien-16764/ [...]]]>

Ở các nước phương Tây, lao màng não có khuynh hướng giảm song song với các thể lao khác. Còn ở các nước đang phát triển, lao màng não vẫn là nguyên nhân gây viêm màng não phổ biến, đặc biệt ở người nhiễm HIV.

Lao màng não gây bệnh cảnh nặng nề

Lao màng não xuất hiện khi vi khuẩn lao đi theo đường máu đến tấn công não và màng não. Căn bệnh này xảy ra ở mọi lứa tuổi. Ở người lớn, lao màng não thường gặp ở lứa tuổi 20-50, nam bị nhiều hơn nữ. Ở trẻ em, bệnh tập trung ở lứa tuổi 1-5. Bệnh khởi đầu với những triệu chứng không đặc hiệu: nhức đầu, chóng mặt, ù tai; có người bị co giật khu trú, liệt, nói sảng, buồn bã… khá giống với các bệnh thông thường như cảm cúm, rối loạn tiền đình, viêm xoang, rối loạn tâm lý. Nhìn chung, các triệu chứng bệnh ở giai đoạn này khó nhận biết được, dễ bỏ qua.

Khi bệnh tiến triển, tùy thuộc vào thời gian mắc bệnh sớm hay muộn mà các triệu chứng của lao màng não có thể rất nghèo nàn hoặc phong phú. Tuy nhiên, các dấu hiệu viêm màng não điển hình ngày càng đầy đủ và rõ như: sốt cao, kéo dài, tăng lên về chiều tối; nhức đầu khu trú hoặc lan tỏa, liên tục hoặc thành từng cơn, âm ỉ hoặc dữ dội và tăng lên khi có những kích thích tiếng động hoặc ánh sáng (nhức đầu kết hợp với tăng trương lực cơ làm bệnh nhân hay nằm ở tư thế co người, quay mặt vào trong tối); nôn (khi tăng áp lực nội sọ) tự nhiên, nôn vọt không liên quan tới bữa ăn; rối loạn tiêu hóa như táo bón hoặc tiêu chảy; đau bụng, đau các khớp, đau ở cột sống phối hợp với đau ở các chi; rối loạn cơ thắt gây bí tiểu, tiểu tiện hoặc đại tiểu tiện không tự chủ; liệt các dây thần kinh sọ, liệt các chi, các cơn động kinh cục bộ hoặc toàn thể, các biểu hiện rối loạn tâm thần. Các biểu hiện rối loạn ý thức có thể có với mức từ nhẹ đến nặng (hôn mê). Do các biểu hiện này cũng gặp ở các bệnh về não khác như u não, xuất huyết não, màng não, viêm màng não mủ, viêm màng não do nấm… nên bệnh nhân và ngay cả thầy thuốc cũng dễ nhầm, tập trung điều trị các bệnh về não mà bỏ qua việc điều trị lao.

Lao màng não và những nguy biếnTiêm phòng lao cho trẻ.          Ảnh: TM

Trong lao màng não, vi khuẩn lao có thể gây ra những hình thái tổn thương như: gây viêm và làm tổn thương màng não, chủ yếu màng não ở khu vực nền sọ; gây viêm và làm hẹp động mạch cung cấp máu nuôi dưỡng não do đó có thể gây tổn thương một vùng của não; gây rối loạn lưu thông của não thất. Do đó, muốn điều trị bệnh có kết quả tốt thì cần chẩn đoán và điều trị bệnh ở giai đoạn sớm. Vì ở giai đoạn này tổn thương ở màng não và não nhẹ có thể phục hồi chức năng tốt sau quá trình điều trị.

Khám bệnh nhân lao màng não, bác sĩ sẽ phát hiện dấu hiệu cứng cổ, có thể có dấu hiệu tổn thương dây thần kinh sọ não, kèm theo liệt một tay, một chân hoặc nửa người. Bệnh nhân cũng có thể có tổn thương tủy sống dẫn đến liệt hai chân và bí tiểu. Đặc biệt trẻ em hay bị co giật nhiều hơn người lớn. Do có triệu chứng trùng lặp với các bệnh viêm màng não khác hoặc các bệnh lý nhiễm khuẩn thông thường, nên việc chẩn đoán bệnh lao màng não hiện còn gặp nhiều khó khăn, phải dựa vào việc chọc dịch não tủy, một thủ thuật xâm lấn tuy an toàn nhưng khá đau đớn. Các xét nghiệm về vi trùng học của dịch não tủy thì không nhạy và có thể mất rất nhiều thời gian đưa đến chậm trễ trong chẩn đoán. Có những trường hợp mất cả một, hai tháng mới có chẩn đoán bệnh.

Mặc dù ngày nay y học đã đạt nhiều tiến bộ nhưng việc điều trị lao màng não dường như vẫn là thách thức lớn. Chậm trễ trong chẩn đoán sẽ dẫn đến chậm trễ trong điều trị và dĩ nhiên sẽ đi liền với tốn kém tiền bạc, công sức, đặc biệt là tỷ lệ tử vong và di chứng sẽ tăng vọt. Nếu nhập viện muộn (khi đã hôn mê sâu), tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân lao màng não lên đến 70-80%. Những người còn sống có thể gặp những biến chứng nặng nề như sống đời sống thực vật, động kinh, mù mắt, liệt dây thần kinh 3 hoặc 4, liệt nửa người hoặc hai chi dưới, thiểu năng trí tuệ, thay đổi tính tình, béo phì, vô kinh ở nữ giới, đái tháo nhạt,…

Cách phòng ngừa bệnh lao

Cho bản thân: Trẻ sơ sinh phải được tiêm chủng BCG đầy đủ. Sống trong môi trường thoáng mát, sạch sẽ. Dinh dưỡng đầy đủ. Sinh hoạt điều độ: hạn chế thức khuya, dậy sớm. Không lạm dụng các chất gây nghiện như bia, rượu, thuốc lá và không sử dụng ma túy.

Cho cộng đồng: Nếu có triệu chứng ho kéo dài từ hai tuần trở lên phải đi khám phổi. Nếu bị phát hiện lao phổi, phải nghỉ ngơi tại nhà và hạn chế tiếp xúc với người thân ít nhất hai tuần sau điều trị, mỗi khi ho phải che miệng, phải đeo khẩu trang y tế. Uống thuốc đúng và đầy đủ theo hướng dẫn của nhân viên y tế.

BS. Xuân Đồng

]]>
Tiết mồ hôi ban đêm và bệnh lao http://tapchisuckhoedoisong.com/tiet-mo-hoi-ban-dem-va-benh-lao-15793/ Wed, 05 Sep 2018 05:30:48 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/tiet-mo-hoi-ban-dem-va-benh-lao-15793/ [...]]]>

Nếu thật sự như vậy thì chúng ta phải tầm soát tất cả người có triệu chứng này?

(Tất Thành Minh – Bình Phước)

Nhiễm lao là một nhiễm trùng thường gặp nhất liên quan đến tăng tiết mồ hôi ban đêm. Một số nhiễm trùng khác như viêm nội tâm mạc (viêm nhiễm của van tim), viêm tủy xương và ápxe cũng có thể gây ra tình trạng tăng tiết mồ hôi ban đêm. Chứng tăng tiết mồ hôi ban đêm cũng có thể là triệu chứng của nhiễm HIV.

Ngoài một số các bệnh nhiễm trùng gây tăng tiết mồ hôi vào ban đêm như vừa nêu thì còn rất nhiều lý do khác nên không phải ra mồ hôi nhiều ban đêm là kết luận bị lao. Tiết mồ hôi ban đêm cũng có thể là triệu chứng sớm của một vài loại ung thư. Loại ung thư thường gặp nhất gây ra chứng tăng tiết mồ hôi ban đêm là ung thư hạch bạch huyết (lymphoma). Tuy nhiên, những người có bệnh ung thư chưa được chẩn đoán thì ngoài tăng tiết mồ hôi ban đêm còn phải kèm theo những triệu chứng khác như giảm cân không có lý do và sốt. Uống một số loại thuốc nào đó cũng có thể dẫn đến chứng tiết mồ hôi đêm. Thuốc chống trầm cảm là loại thuốc thường gặp gây ra tăng tiết mồ hôi đêm. Có khoảng 8 – 22% người dùng thuốc chống trầm cảm bị tác dụng tăng tiết mồ hôi đêm. Thuốc hạ nhiệt như aspirin và acetaminophen đôi khi cũng gây ra tăng tiết mồ hôi đêm. Có nhiều loại thuốc khác có thể gây ra cơn nóng phừng và tăng tiết mồ hôi đêm. Một vấn đề cũng hay gặp là đường máu thấp gây ra đổ mồ hôi, tất nhiên bất kỳ đêm hay ngày. Những người dùng insulin tiêm hoặc thuốc giảm đường huyết uống có thể gây ra tình trạng giảm đường huyết ban đêm và vì thế dẫn đến triệu chứng đổ mồ hôi đêm. Cơn nóng phừng hoặc tăng tiết mồ hôi có thể do một số bệnh về nội tiết, chẳng hạn như u tủy thượng thận, hội chứng carcinoid, cường tuyến giáp trạng.

Các chuyên gia còn liệt kê một số bệnh lý thần kinh có thể gây ra triệu chứng tiết mồ hôi ban đêm. Đây là những bệnh thần kinh không thường gặp, chẳng hạn như chứng tổn thương tủy sống, nang tủy sống sau chấn thương, tai biến mạch máu não, bệnh lý thần kinh tự động… gây tăng tiết mồ hôi và dẫn đến đổ mồ hôi nhiều vào ban đêm.

BS.CKII. ĐẶNG MINH TRÍ

]]>
Phát hiện bệnh lao ở trẻ em http://tapchisuckhoedoisong.com/phat-hien-benh-lao-o-tre-em-15275/ Wed, 15 Aug 2018 14:48:52 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/phat-hien-benh-lao-o-tre-em-15275/ [...]]]>

Bệnh lao do vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis gây nên. Thể bệnh lao phổi khá phổ biến, chiếm tỉ lệ cao và là nguồn lây bệnh chính cho những người ở chung quanh; ngoài ra còn có thể bệnh lao ngoài phổi cũng cần được lưu ý phát hiện.

Chẩn đoán xác định bệnh lao ở trẻ em

Việc nhận biết sớm dấu hiệu bệnh lao ở trẻ em trên thực tế cần được các cơ sở y tế lưu ý để làm căn cứ giúp cho chẩn đoán xác định bệnh.

Tiền sử: xem xét trẻ có tiếp xúc gần gũi với người mắc bệnh lao phổi trong thời gian khoảng 1 – 2 năm gần đây hay không, có các triệu chứng lâm sàng nghi lao đã được điều trị nhưng triệu chứng không thuyên giảm hoặc ít cải thiện và nhanh tái phát.

Triệu chứng lâm sàng nghi lao: ghi nhận triệu chứng toàn thân như sốt, ra mồ hôi đêm, mệt mỏi, giảm chơi đùa, chán ăn, không tăng cân hay sụt cân, suy dinh dưỡng…; triệu chứng cơ năng được biểu hiện tùy thuộc vào cơ quan mắc bệnh lao, các triệu chứng thường kéo dài trên 2 tuần và không cải thiện với những liệu pháp điều trị khác ngoài lao; triệu chứng thực thể thường nghèo nàn hoặc rầm rộ cũng tùy theo cơ quan bị mắc bệnh và giai đoạn tiến triển của bệnh.

Phát hiện bệnh lao ở trẻ emBệnh lao ở trẻ em chiếm tỉ lệ 10 -15% các trường hợp mắc mới mỗi năm, vì vậy cần lưu ý phát hiện Ảnh minh họa

Phim chụp X-quang: các hình ảnh tổn thương nghi lao ở trẻ em hay gặp trên phim chụp X-quang ngực thường quy được ghi nhận như: hạch bạch huyết cạnh khí phế quản hoặc hạch rốn phổi to biểu hiện với hình mờ tròn hoặc bầu dục; có nốt lao, đông đặc nhu mô phổi; có nốt lao kê, hang lao; có hình ảnh tràn dịch màng phổi, màng tim; có hình ảnh dày rãnh liên thùy phổi, có thể kèm theo hình ảnh tràn dịch khu trú. Việc chụp phim X-quang ngực giúp xác định các tổn thương do lao tại phổi phối hợp với lao ở các cơ quan khác. Đối với tổn thương nghi lao cột sống, thấy trên phim chụp X-quang thân đốt sống bị phá hủy tạo thành hình chêm trên phim chụp nghiêng, có thể thấy hình ảnh ổ ápxe lạnh ở hai bên cạnh các đốt sống tổn thương trên phim chụp thẳng. Đối với tổn thương xương khớp nghi lao, thấy trên phim chụp X-quang hình ảnh ổ khớp, cổ hay thân xương bị phá hủy; hình ảnh ổ khuyết xương, tràn dịch ổ khớp.

Xét nghiệm tìm vi khuẩn lao: đây là tiêu chuẩn vàng để giúp chẩn đoán xác định bệnh lao. Bất kỳ bệnh phẩm nào cũng đều có thể lấy được để xét nghiệm tìm vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis tùy theo thể bệnh như: đờm, dịch dạ dày, dịch các màng, dịch phế quản, dịch não tủy, mủ hạch, phân, mủ ápxe… Kỹ thuật xét nghiệm thường được thực hiện là Xpert MTB/RIF (mycobacterium tuberculosis/rifampicin), nhuộm soi trực tiếp, nuôi cấy…

Xét nghiệm nhiễm lao: thực hiện thử nghiệm test da hoặc IGRA (interferon gamma release assay) với kết quả dương tính cho biết trẻ đã bị nhiễm bệnh lao nhưng không khẳng định trẻ đang mắc bệnh lao. Các xét nghiệm này cho kết quả âm tính cũng chưa loại trừ trẻ có mắc lao hay không khi có sự xuất hiện các yếu tố chẩn đoán lao phổi ở trẻ em.

Các xét nghiệm khác: cũng cần được thực hiện để giúp hỗ trợ cho việc chẩn đoán xác định bệnh lao như: xét nghiệm giải phẫu bệnh hay tế bào-mô bệnh học đối với trường hợp lao hạch, lao các màng, lao xương khớp… Chẩn đoán hình ảnh bằng kỹ thuật siêu âm, chụp ảnh cắt lớp vi tính CT-scan, chụp phim cộng hưởng từ MRI (magnetic resonance imaging)… các cơ quan nghi nhiễm lao.

Chẩn đoán bệnh lao phổi

Trẻ em được chẩn đoán xác định mắc bệnh lao phổi khi đáp ứng đầy đủ một trong hai điều kiện: trẻ có triệu chứng lâm sàng nghi lao và xét nghiệm tìm vi khuẩn lao dương tính đối với các bệnh phẩm lâm sàng như: đờm, dịch dạ dày, dịch phế quản, phân. Được các bác sĩ chuyên khoa hội chẩn chẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm sàng như ho, sốt, ra mồ hôi đêm, sụt cân hay không tăng cân, giảm chơi đùa trên 2 tuần; có hình ảnh phim chụp X quang ngực nghi lao; không đáp ứng với điều trị kháng sinh phổ rộng trong thời gian 10 – 14 ngày; có tiền sử tiếp xúc với nguồn lây trong vòng 2 năm gần đây; thử nghiệm test da hoặc IGRA dương tính.

Chẩn đoán bệnh lao ngoài phổi

Trong các bệnh lao ngoài phổi ở trẻ em, lao hạch ngoại vi là thể bệnh lao thường gặp và đứng hàng thứ hai sau lao phổi. Trẻ được chẩn đoán mắc lao hạch ngoại vi khi có các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng ghi nhận. Về lâm sàng, hạch lao thường gặp ở vùng cổ, tiến triển chậm, to dần, kích thước trên 2cm, không đối xứng, không đau, không đỏ; trong giai đoạn muộn nếu không được điều trị có thể dò ra chất bã đậu, lâu liền sẹo; triệu chứng toàn thân có thể gặp như sốt, ra mồ hôi ban đêm, sụt cân; điều trị kháng sinh phổ rộng khoảng 1 – 2 tuần không đáp ứng. Về cận lâm sàng, xét nghiệm tế bào học có thể thấy chất hoại tử bã đậu, tế bào bán liên, tế bào khổng lồ trong các bệnh phẩm lâm sàng hạch từ chọc hút, dịch mủ; xét nghiệm mô bệnh học bệnh phẩm sinh thiết hạch thấy có hình ảnh nang lao điển hình với ở giữa là vùng hoại tử bã đậu, bao quanh là các tế bào bán liên, tế bào khổng lồ và tế bào lympho, ngoài cùng là lớp tế bào xơ; có thể xét nghiệm soi trực tiếp, xét nghiệm Xpert MTB/RIF hoặc nuôi cấy tìm vi khuẩn lao từ bệnh phẩm mủ hạch. Lưu ý cần chẩn đoán phân biệt với hạch viêm do phản ứng BCG, vị trí thường gặp là trong hố nách, thượng đòn cùng bên với chỗ tiêm BCG và thường xuất hiện trong năm đầu tiên sau khi tiêm; trường hợp này cần xử trí tại chỗ, không dùng phác đồ điều trị lao hạch; nếu hạch BCG có hiện tượng lan tỏa, cần hội chẩn với bác sĩ chuyên khoa lao để định hướng điều trị.

Trẻ em được xác định lao phổi khi đáp ứng đầy đủ một trong hai điều kiện: trẻ có triệu chứng lâm sàng nghi lao và xét nghiệm tìm vi khuẩn lao dương tính

 

Ngoài lao hạch ngoại vi là thể bệnh khá phổ biến của bệnh lao ngoài phổi, trên thực tế còn gặp các thể bệnh lao ngoài phổi khác cũng cần được lưu ý như lao màng phổi, thể lao lan tràn và nặng ở trẻ em dưới 5 tuổi, thể lao ở trẻ em từ 5 tuổi trở lên.

Lao màng phổi có biểu hiện lâm sàng thường gặp là nghe tiếng rì rào phế nang giảm và gõ đục, có thể có đau tức; thực hiện xét nghiệm chụp phim X-quang, chọc dịch màng phổi để giúp chẩn đoán; khuyến cáo cần điều trị bệnh lao, nếu dịch màng phổi có mủ cần xem khả năng viêm mủ màng phổi và chuyển lên tuyến trên.

Trẻ em dưới 5 tuổi có thể mắc thể lao lan tràn và nặng như lao màng não, lao kê. Lao màng não có biểu hiện lâm sàng hay gặp với triệu chứng đau đầu, khó chịu, quấy khóc, nôn, hôn mê, giảm hoặc mất ý thức, co giật, cổ cứng, thóp phồng, liệt…; xét nghiệm chọc dò tủy sống lấy dịch não tủy, chụp phim X-quang phổi để xác định, trường hợp này được khuyến cáo nên nhập viện để điều trị lao. Lao kê với dấu hiệu lâm sàng có thể rầm rộ như khó thở, sốt cao, tím tái không tương xứng dấu hiệu thực thể ở phổi, hôn mê, suy kiệt…; cần chụp phim X-quang phổi để xác định; trường hợp bệnh lý này được khuyến cáo điều trị tại chỗ hoặc chuyển lên tuyến trên.

Trẻ em từ 5 tuổi trở lên có thể mắc các bệnh lao ngoài phổi như lao màng bụng, lao cột sống, lao màng ngoài tim, lao xương khớp. Lao màng bụng với biểu hiện lâm sàng hay gặp là bụng to dần, cổ trướng, gõ đục phần thấp hoặc có các đám cứng trong ổ bụng; xét nghiệm chọc hút màng bụng để xác định; trường hợp này nên chuyển lên tuyến trên để điều trị. Lao cột sống với biểu hiện lâm sàng hay gặp là đau cột sống vùng tổn thương, đau tăng khi vận động, cột sống bị biến dạng, có thể chân bị yếu hay bị liệt; chụp phim X quang cột sống để xác định và nên chuyển lên tuyến trên để điều trị. Lao màng ngoài tim với biểu hiện lâm sàng hay gặp là nhịp tim nhanh, tiếng tim mờ, mạch khó bắt, khó thở; chụp phim X quang lồng ngực, siêu âm tim, chọc dịch màng tim để xác định và nên chuyển lên tuyến trên để điều trị. Lao xương khớp với biểu hiện lâm sàng hay gặp ở cuối các xương dài, khớp sưng biến dạng, hạn chế vận động, có hiện tượng tràn dịch một bên và thường xảy ra ở khớp gối hoặc khớp háng; cần chụp phim X-quang, hút dịch ổ khớp để xác định; trường hợp này cần chuyển lên tuyến trên để điều trị. Lưu ý dịch bệnh phẩm được lấy ra theo kỹ thuật chọc hút có đặc điểm là dịch lỏng màu vàng chanh, protein cao, nhuộm và soi trực tiếp có các tế bào bạch cầu, chủ yếu là tế bào lympho. Trường hợp bệnh không chuyển được lên tuyến trên thì phải bắt đầu điều trị bệnh lao tại chỗ theo phác đồ quy định.

 

Lời khuyên của thầy thuốc
Hiện nay tình hình bệnh lao ở trong cộng đồng đang có chiều hướng phát triển và lan rộng do công tác dự phòng ở các địa phương còn gặp nhiều hạn chế. Vì vậy, cơ sở y tế cần lưu ý phát hiện bệnh lao ở trẻ em kể cả thể bệnh lao phổi và thể bệnh lao ngoài phổi vì theo các nhà khoa học mỗi năm trẻ em bị mắc bệnh lao chiếm tỉ lệ khoảng 10 – 15% các trường hợp mắc mới. Phát hiện sớm những dấu hiệu nghi ngờ trên lâm sàng sẽ giúp cho việc chẩn đoán xác định bệnh kịp thời, chính xác; theo đó lựa chọn biện pháp xử trí điều trị bệnh phù hợp và có hiệu quả trước thực trạng vi khuẩn lao kháng thuốc điều trị đang sử dụng.

 

BS. NGUYỄN TRÂM ANH

]]>
Những việc cần làm để phòng ngừa bệnh lao http://tapchisuckhoedoisong.com/nhung-viec-can-lam-de-phong-ngua-benh-lao-14945/ Wed, 08 Aug 2018 16:32:49 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/nhung-viec-can-lam-de-phong-ngua-benh-lao-14945/ [...]]]>

Ngoài ra, nếu bạn đang tiếp xúc gần gũi (sống cùng hoặc làm việc cùng) với những người bị bệnh lao, bạn cũng có nguy cơ cao hơn bị bệnh lao.

Người nghiện rượu, sử dụng các thuốc bất hợp pháp và các chất gây mê, những người có cân nặng thấp hơn 10% so với mức khuyến nghị cũng có nguy cơ bị bệnh lao.

Mặc dù đây là một bệnh truyền nhiễm nhưng bạn có thể dự phòng bệnh bằng những chiến lược phòng ngừa nghiêm ngặt. Điều này không chỉ làm giảm sự lây lan của bệnh mà còn có thể giúp giảm số trường hợp tử vong do bệnh. Dưới đây là những việc bạn cần làm để giảm nguy cơ lây bệnh.

1. Tránh tiếp xúc gần với người bệnh

Tránh tiếp xúc gần với những người bị bệnh lao. Nếu bạn không thể tránh hãy đeo khẩu trang và găng tay bảo vệ. Nếu bạn làm ở bệnh viện, hãy đeo khẩu trang chất lượng tốt. Rửa tay với chất sát trùng sau khi tiếp xúc với bệnh nhân. Tránh những nơi đông đúc, ngột ngạt và thiếu vệ sinh.

2. Tăng cường khả năng miễn dịch

Tăng cường khả năng miễn dịch bằng cách duy trì chế độ ăn giàu chất chống oxy hóa. Ăn ít nhất 4-5 khẩu phần rau xanh và hoa quả mỗi ngày. Nếu bạn không thể ăn do nguyên nhân nào đó, hãy đảm bảo nhận được liều hàng ngày các chất chống oxy hóa/vitamin tổng hợp sau khi tham khảo ý kiến bác sĩ. Các chất chống oxy hóa giúp chống lại các gốc tự do sản sinh trong tế bào do bệnh tật/căng thẳng và giúp tái tạo tế bào.

3. Duy trì khẩu phần protein

Ăn ít nhất 2 phần protein trong chế độ ăn hàng ngày. Chúng giúp hình thành các khối tế bào và tái tạo tế bào.

4. Duy trì bữa ăn lành mạnh giàu dinh dưỡng

Bạn cần kết hợp tốt tất cả các thành phần của thực phẩm để khỏe mạnh. Carbohydrat, protein, vitamin và chất béo đều có vai trò trong việc duy trì hệ miễn dịch của cơ thể.

5. Tạo thói quen tập thể dục thường xuyên

Hãy tập luyện hàng ngày. Bạn có thể đi bộ thường xuyên ít nhất 45 phút mỗi ngày. Tập luyện sẽ cải thiện tuần hoàn máu và cải thiện hệ miễn dịch.

6. Tập thiền

Hãy dành vài phút để ngồi thiền mỗi ngày. Cách này giúp bạn giảm căng thẳng hàng ngày và tăng cường hệ miễn dịch.

7. Luôn giữ vệ sinh sạch sẽ

Giữ gìn vệ sinh tốt ở bất cứ nơi nào bạn đến. Rửa tay với xà phòng khử trùng thường là một thói quen bị đánh giá thấp nhưng trên thực tế rất có lợi. Khi phải tiếp xúc nhiều với bệnh nhân, bạn không thể bỏ qua thói quen đơn giản này.

8. Đưa trẻ đi tiêm chủng

Vì phòng bệnh luôn tốt hơn chữa bệnh, nên cách tốt nhất là bạn nên đưa con đi tiêm vắc-xin Bacillus Calmette-Guerin (BCG) để phòng chống bệnh lao. Cách này sẽ đảm bảo phát triển các kháng thể chống Mycobacterium tuberculosis và do vậy làm giảm nguy cơ mắc bệnh lao.

9. Tuân thủ dùng thuốc (không bao giờ tự ý dừng thuốc)

Khi người bệnh không tuân thủ điều trị, vi khuẩn lao có thể trở nên nên kháng thuốc. Khi các vi khuẩn kháng thuốc này bắn vào không khí, chúng có thể lây bệnh cho những cá nhân khỏe mạnh. Điều này sẽ dẫn tới tăng số người bị bệnh lao đa kháng thuốc. Do vậy hãy uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ.

10. Tránh xa căng thẳng

Bạn có thể không nhận thức được rằng stress làm tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh trong đó có bệnh lao. Do vậy, bạn nên tránh xa mọi căng thẳng.

11. Ngủ đủ giấc hàng ngày

Mất ngủ không phải là chuyện hiếm gặp trong cuộc sống hiện đại. Tuy nhiên, việc ngủ đủ giấc là rất quan trọng để duy trì sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật. Hãy tránh xa những thực phẩm cản trở giấc ngủ, đồng thời cố gắng ăn những thực phẩm giúp phục hồi chu kì thức ngủ.

BS Cẩm Tú

(Theo THS/ Univadis)

]]>
Bệnh lao ngoài phổi http://tapchisuckhoedoisong.com/benh-lao-ngoai-phoi-14165/ Mon, 06 Aug 2018 06:00:55 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/benh-lao-ngoai-phoi-14165/ [...]]]>

Tuy vậy, các bệnh lao ngoài phổi mặc dù chiếm tỉ lệ thấp hơn nhưng cũng cần phải lưu ý phát hiện, chẩn đoán và có hướng điều trị đúng để không bị bỏ sót.

Chẩn đoán các bệnh lao ngoài phổi

Trên thực tế, lao ngoài phổi là thể bệnh lao khó chẩn đoán, do đó để tiếp cận việc phát hiện và chẩn đoán thì trong quá trình thăm khám người bệnh bác sĩ phải lưu ý hướng đến và tìm kiếm các dấu hiệu bệnh lý của bệnh lao, phân biệt với các bệnh lý ngoài bệnh lao khác và chỉ định thực hiện các kỹ thuật, xét nghiệm cần thiết để từ đó chẩn đoán xác định căn cứ trên các triệu chứng, dấu hiệu ở cơ quan ngoài phổi nghi bệnh; luôn tìm kiếm xem có lao phổi phối hợp không, sàng lọc để loại trừ ngay bằng phim chụp X-quang phổi, nếu có lao phổi sẽ là cơ sở quan trọng cho việc chẩn đoán bệnh lao ngoài phổi; lấy bệnh phẩm từ các vị trí tổn thương để xét nghiệm tìm vi khuẩn bằng kỹ thuật nhuộm soi trực tiếp, nuôi cấy, xét nghiệm ứng dụng công nghệ sinh học phân tử để nhận diện vi khuẩn lao kể cả vi khuẩn lao kháng thuốc rifampicin Xpert MTB/RIF (mycobacterium tuberculosis/rifampicin) với bệnh phẩm dịch não tủy, đờm, dịch phế quản, dạ dày, dịch mủ các màng, mủ tổn thương hạch, xương, tai, khớp…; xét nghiệm mô bệnh học, tế bào học để xác định hình ảnh tổn thương lao. Việc chẩn đoán lao ngoài phổi đơn thuần không kết hợp với lao phổi thường khó khăn, cần dựa vào triệu chứng nghi lao như sốt về buổi chiều kéo dài, ra mồ hôi vào ban đêm, sút cân; các triệu chứng tại chỗ nơi cơ quan bị tổn thương và những nguy cơ mắc bệnh lao. Mức độ chính xác của việc chẩn đoán phụ thuộc nhiều vào khả năng phát hiện của các kỹ thuật hỗ trợ như X-quang, siêu âm, sinh thiết, xét nghiệm vi khuẩn học. Lưu ý cần phải luôn chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác để loại trừ. Các bác sĩ được đào tạo về chuyên khoa cần tập hợp phân tích các triệu chứng, dấu hiệu để quyết định việc chẩn đoán xác định và chỉ định phác đồ điều trị phù hợp.

Một số bệnh lao ngoài phổi thường gặp

Một số bệnh lao ngoài phổi thường gặp như lao hạch, tràn dịch màng phổi do lao, tràn dịch màng tim do lao, tràn dịch màng bụng do lao, lao màng não- não, lao xương khớp, lao tiết niệu-sinh dục cần được phát hiện, chẩn đoán xác định với các đặc điểm bệnh lý để có định hướng điều trị một cách phù hợp và hiệu quả.

Lao hạch: vị trí thường gặp nhất là hạch cổ, điển hình là dọc cơ ức đòn chũm nhưng cũng có thể gặp ở các vị trí khác. Hạch sưng to, lúc đầu hạch chắc, riêng rẽ, di động, không đau nhưng sau đó dính vào nhau và các tổ chức dưới da nên kém di động, hạch có thể nhuyễn hóa, rò mủ; bệnh có thể khỏi và để lại sẹo xấu. Chẩn đoán xác định bằng phương pháp sinh thiết hạch, chọc hút hạch để xét nghiệm mô bệnh học tế bào thấy chất hoại tử bã đậu, tế bào bán liên, tế bào lympho, nang lao; nhuộm soi trực tiếp tìm thấy vi khuẩn lao kháng cồn, kháng axít AFB (acid fast baccilli); ngoài ra có thể tìm vi khuẩn lao bằng phương pháp nuôi cấy bệnh phẩm chọc hút hạch; bệnh phẩm mủ có thể xét nghiệm Xpert.

Bệnh lao ngoài phổiBệnh lao ngoài phổi cần được lưu ý phát hiện, chẩn đoán để có hướng điều trị phù hợp

Tràn dịch màng phổi do lao: triệu chứng lâm sàng thường gặp là đau ngực, khó thở tăng dần, khám phổi có hội chứng 3 giảm. Chụp phim X-quang ngực thấy hình mờ đậm thuần nhất, mất góc sườn hoành, đường cong Damoiseau. Siêu âm màng phổi thấy có dịch. Chẩn đoán xác định bằng phương pháp chọc hút khoang màng phổi thấy dịch màu vàng chanh, rất hiếm khi dịch màu hồng, dịch tiết, chiếm ưu thế là thành phần tế bào lympho; có thể tìm thấy bằng chứng vi khuẩn lao trong dịch màng phổi bằng nhuộm soi trực tiếp và nuôi cấy; sinh thiết màng phổi mù hoặc qua soi màng phổi lấy bệnh phẩm để chẩn đoán vi khuẩn học hoặc mô bệnh học tế bào; dịch màng phổi có thể xét nghiệm Xpert.

Tràn dịch màng tim do lao: triệu chứng lâm sàng phụ thuộc vào số lượng dịch và tốc độ hình thành dịch ở màng tim. Triệu chứng thường gặp bao gồm đau ngực, khó thở, tĩnh mạch cổ nổi, phù chi dưới. Khám ghi nhận có tim nhịp nhanh, huyết áp kẹt, mạch đảo ngược nếu có hội chứng ép tim cấp tính. Nghe có tiếng cọ màng tim ở giai đoạn sớm hoặc tiếng tim mờ khi tràn dịch nhiều. Chụp phim X-quang ngực thấy bóng tim to, có hình giọt nước, hình đôi bờ. Đo điện tim thấy có điện thế thấp ở các chuyển đạo, sóng T âm và ST chênh. Siêu âm có dịch màng ngoài tim. Chẩn đoán xác định bằng phương pháp chọc hút dịch màng tim, dịch thường màu vàng chanh, dịch tiết, tế bào lympho chiếm ưu thế; có thể tìm thấy bằng chứng vi khuẩn lao trong dịch màng tim bằng nhuộm soi trực tiếp và nuôi cấy; dịch màng tim có thể xét nghiệm Xpert.

Tràn dịch màng bụng do lao: triệu chứng lâm sàng ghi nhận với các dấu hiệu tràn dịch màng bụng như gõ đục vùng thấp thay đổi theo tư thế, dấu hiệu “sóng vỗ”, dấu hiệu gõ đục “ô bàn cờ” giai đoạn muộn… Có thể sờ thấy các u cục, đám cứng trong ổ bụng. Có thể có dấu hiệu tắc hoặc bán tắc ruột do các hạch dính vào ruột. Siêu âm ổ bụng có các hình ảnh gợi ý lao màng bụng như hạch mạc treo to, có hạch sau màng bụng, có dịch khu trú giữa các đám dính, nội soi ổ bụng thấy các hạt lao. Chẩn đoán xác định bằng phương pháp chọc hút dịch màng bụng thấy có màu vàng chanh, đôi khi đục, dịch tiết, tế bào lympho chiếm ưu thế; có thể tìm thấy bằng chứng vi khuẩn lao trong dịch màng bụng bằng nhuộm soi trực tiếp, nuôi cấy; soi ổ bụng và sinh thiết là kỹ thuật rất có giá trị cho việc chẩn đoán trong hầu hết các trường hợp; trên tiêu bản sinh thiết thấy hình ảnh tế bào bị hoại tử bã đậu, nang lao; dịch màng bụng có thể xét nghiệm Xpert.

Lao màng não – não: triệu chứng lâm sàng của bệnh lý viêm màng não thường khởi phát bằng dấu hiệu đau đầu tăng dần và rối loạn tri giác. Khám thường thấy có dấu hiệu cổ cứng và dấu hiệu Kernig dương tính. Có thể có dấu hiệu tổn thương dây thần kinh sọ não và dấu hiệu thần kinh khu trú như liệt dây thần kinh sọ não số III, VI, VII; rối loạn cơ tròn. Các tổn thương tủy sống có thể gây ra liệt ở 2 chi dưới như liệt cứng hoặc liệt mềm. Chọc dịch não tuỷ ghi nhận có áp lực tăng, dịch có thể trong ở giai đoạn sớm và ánh vàng ở giai đoạn muộn, có khi vẩn đục. Xét nghiệm sinh hóa dịch não tủy thường thấy protein tăng và glucose giảm. Tế bào trong dịch não tủy tăng vừa thường dưới 600 tế bào/mm3 và tế bào lympho chiếm ưu thế, ở giai đoạn sớm tỉ lệ bạch cầu trung tính tăng nhưng không có bạch cầu thoái hóa mủ. Chẩn đoán xác định dựa vào bệnh cảnh lâm sàng, đặc điểm dịch não tủy và xét nghiệm sinh hóa tế bào dịch não tủy, có thể tìm thấy bằng chứng vi khuẩn lao trong dịch màng não tủy bằng nuôi cấy với tỉ lệ dương tính cao hơn khi nuôi cấy trên môi trường lỏng, nhuộm soi trực tiếp AFB dương tính với tỉ lệ rất thấp; dịch màng não có thể xét nghiệm Xpert. Chụp cộng hưởng từ MRI (magnetic resonnace imaging) não có thể thấy hình ảnh màng não dày và tổn thương ở não gợi ý lao, ngoài ra chụp MRI não giúp chẩn đoán phân biệt bệnh lý khác ở não như u não, viêm não, ápxe não, sán não… Cần chẩn đoán loại trừ với các nguyên nhân khác như viêm màng não mủ, viêm màng não nước trong và các bệnh lý thần kinh khác.

Lao xương khớp: triệu chứng lâm sàng thường gặp ở cột xương sống với đặc điểm như đau lưng, hạn chế vận động, đau tại chỗ tương ứng với đốt xương sống bị tổn thương trong giai đoạn sớm; khi chuyển sang giai đoạn muộn sẽ gây biến dạng gù cột xương sống hoặc có dấu hiệu chèn ép tuỷ sống gây liệt. Ngoài cột xương sống, lao còn hay gặp ở các khớp xương lớn với biểu hiện như sưng đau khớp xương kéo dài, không sưng đỏ, không đối xứng, có thể có dò mủ bã đậu. Chụp phim X-quang, chụp phim cắt lớp vi tính CT (computed tomography), chụp MRI cột xương sống, khớp xương thấy hẹp khe đốt xương sống, xẹp đốt xương sống hình chêm, có thể thấy mảnh xương chết và hình áp xe lạnh cạnh cột xương sống, hẹp khe khớp xương. Chẩn đoán xác định dựa vào lâm sàng và các đặc điểm tổn thương trên phim chụp X-quang, chụp CT, chụp MRI cột xương sống, khớp xương; nếu có ápxe lạnh sẽ bị dò mủ, xét nghiệm mủ áp xe tìm AFB cho tỷ lệ dương tính cao; sinh thiết tổ chức cho phép chẩn đoán mô bệnh tế bào; dịch mủ khớp có thể xét nghiệm Xpert.

Lao tiết niệu – sinh dục: trên lâm sàng, triệu chứng hay gặp là rối loạn bài tiết như đi tiểu buốt, đi tiểu rắt kéo dài từng đợt, điều trị kháng sinh thì đỡ nhưng sau đó xuất hiện lại, có thể đi tiểu ra máu không có máu cục, nước tiểu có màu đục, đau thắt lưng âm ỉ. Lao sinh dục nam có thể gây sưng đau tinh hoàn, mào tinh hoàn; ít gặp trường hợp viêm cấp tính, tràn dịch màng tinh hoàn. Lao sinh dục nữ có thể gây tiết dịch âm đạo bệnh lý hay khí hư, rối loạn kinh nguyệt, dần dần dẫn đến mất kinh nguyệt, vô sinh. Chẩn đoán xác định khi tìm thấy vi khuẩn lao trong nước tiểu, dịch màng tinh hoàn, dịch dò, khí hư bằng phương pháp nuôi cấy, tỷ lệ dương tính cao hơn khi cấy trên môi trường lỏng; nhuộm soi trực tiếp AFB cho kết quả dương tính với tỉ lệ rất thấp. Chụp thận thuốc tĩnh mạch UIV (urographie intra veineuse) thấy hình ảnh gợi ý lao như đài thận bị cắt cụt, có hang lao, niệu quản chít hẹp…; soi bàng quang, soi tử cung và sinh thiết xét nghiệm mô bệnh học thấy tế bào có nang lao, xét nghiệm vi khuẩn lao để phát hiện; chọc hút dịch màng tinh hoàn thấy có đặc điểm như lao các màng khác trong cơ thể; chọc dò u tinh hoàn xét nghiệm tế bào thấy có viêm lao; dịch mủ có thể xét nghiệm Xpert.

Các thể bệnh lao ngoài phổi ít gặp

Ngoài các trường hợp thể bệnh lao ngoài phổi thường gặp đã được nêu ở trên, thực tế lâm sàng còn có thể gặp một số thể bệnh lao khác như lao da, lao lách, lao gan… nhưng chiếm tỉ lệ thấp hơn. Để chẩn đoán xác định các thể bệnh này, cần xem xét thận trọng đối với trường hợp người bệnh có bệnh lao phổi kết hợp, phải thực hiện phương pháp sinh thiết để chẩn đoán mô bệnh học tế bào.

 

Lời khuyên của thầy thuốc
Hiện nay bệnh lao đang có chiều hướng phát triển gia tăng nhưng trên thực tế thường chỉ chú trọng đến việc phát hiện và chẩn đoán đối với các trường hợp bệnh lao phổi khá phổ biến do chúng chiếm tỉ lệ cao. Vì vậy, cần lưu ý ngoài bệnh lao phổi, trên lâm sàng còn có thể gặp các thể bệnh lao ngoài phổi như trên đã nêu với tỉ lệ thấp hơn để khỏi bị bỏ sót, đặc biệt là đối với những bệnh nhân có bệnh lao phổi kết hợp để phát hiện. Việc chẩn đoán xác định phải luôn luôn căn cứ vào các phương pháp chẩn đoán, xét nghiệm cận lâm sàng để bảo đảm sự chính xác ngoài những triệu chứng lâm sàng ghi nhận, theo đó có định hướng điều trị phù hợp và hiệu quản.

 

BS. NGUYỄN HOÀNG ANH

]]>
Lao màng bụng hay gặp ở người trẻ, vì sao? http://tapchisuckhoedoisong.com/lao-mang-bung-hay-gap-o-nguoi-tre-vi-sao-13656/ Sun, 05 Aug 2018 05:22:27 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/lao-mang-bung-hay-gap-o-nguoi-tre-vi-sao-13656/ [...]]]>

Dễ nhầm với bụng ngoại khoa

Ngoài vi khuẩn lao người còn có vi khuẩn lao bò, vi khuẩn lao không điển hình ít gặp là thủ phạm gây bệnh lao màng bụng. Các triệu chứng toàn thân của lao màng bụng tùy theo tiến triển và giai đoạn. Tuy nhiên, cũng như các bệnh lao khác, bệnh nhân lao màng bụng cũng có hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc với dấu hiệu sốt, thường là sốt nhẹ về chiều, cũng có thể sốt tới 39-400 C. Nhưng do vi khuẩn gây tổn thương ở màng bụng nên bệnh nhân còn bị đau bụng, thường đau âm ỉ nhưng cũng có lúc đau từng cơn, kèm theo  buồn nôn, tiêu chảy hoặc táo bón; bụng trướng, to dần do trong ổ bụng có dịch.

Ở giai đoạn xơ dính thì bụng lõm lòng thuyền; hoặc bụng tròn và rắn như một quả bóng do xơ co kéo (nhiều trường hợp xơ co kéo dẫn tới tắc ruột).

Những triệu chứng kể trên rất dễ nhầm với các bệnh khác trong ổ bụng như viêm ruột thừa, tắc ruột, viêm màng bụng cấp không do lao, ung thư màng bụng… nên nhiều trường hợp nghi ngờ bụng ngoại khoa, bệnh nhân vẫn phải làm các  xét nghiệm lao loại trừ là vì thế.

Các vị trí lao màng bụng hay gặp ở nữ giới.

Phụ nữ phải cẩn thận với bệnh lao màng bụng

Ai cũng có thể mắc lao màng bụng nhưng hay gặp hơn cả là độ tuổi dưới 40, đặc biệt nhiều là ở độ tuổi từ 20-30 tuổi. Bệnh lao màng bụng “ưu ái” phụ nữ hơn nam giới, vì theo thống kê, bệnh nhân nữ chiếm 75- 90%. Có 4 con đường đưa vi khuẩn lao vào màng bụng. Một là từ hạch mạc treo bị lao khiến vi khuẩn lao lan tràn theo đường bạch huyết hoặc đường tiếp cận tới màng bụng. Hai là từ lao hồi manh tràng hoặc lao ruột non, lan tràn qua thành ruột tới màng bụng. Ba là lan tràn bằng đường máu từ các tổn thương lao ở xa. Và đặc biệt, con đường thứ tư là do vi khuẩn lan tràn từ ống Fallop bị lao tới màng bụng, điều này giải thích tại sao tỷ lệ nhiễm lao màng bụng ở nữ giới lại cao hơn. Điều đáng nói ở đây là nếu không cẩn thận để nhiễm bệnh, nhất là đang ở trong độ tuổi sinh sản, chị em bị lao màng bụng sẽ gặp nhiều nguy cơ đối với việc mang thai, sinh con, từ đó ảnh hưởng lâu dài tới hạnh phúc sau này.

Các thể lao màng bụng

Biểu hiện lâm sàng của lao màng bụng rất đa dạng và phong phú. Tùy theo vị trí của tổn thương lao, có lao màng bụng lan tỏa, lao màng bụng khu trú. Theo cơ địa và tuổi mà có lao màng bụng người già, trẻ em, lao màng bụng ở người nghiện rượu… Và theo cơ chế lan tràn của vi khuẩn: đường máu, bạch huyết, đường kế cận, tùy thuộc vào độc lực và số lượng của vi khuẩn lao cũng như tình trạng phản ứng của cơ thể người bệnh mà trên lâm sàng có các thể lao màng bụng cấp tính, bán cấp và mạn tính. Do bệnh lao màng bụng ở thể cấp tính và bán cấp tính biểu hiện lâm sàng thường rất mờ nhạt, nên hầu hết bệnh nhân không nhận ra, chỉ khi bệnh đã thành mạn tính với những triệu chứng điển hình, rầm rộ hơn thì mới đi khám và điều trị.

Ða số các bệnh nhân bị lao màng bụng là trẻ tuổi. Những người nghiện rượu nặng, suy giảm miễn dịch, làm việc quá sức nhất là trong điều kiện thiếu vệ sinh, thiếu ăn nhất là thiếu đạm và vitamin dễ mắc bệnh hơn.

Trong thể lao màng bụng mạn tính sẽ chia thành 3 thể: cổ trướng, loét bã đậu, xơ dính.

Thể cổ trướng: Biểu hiện đầu tiên là sốt nhẹ 37- 38oC kéo dài, thường từ chiều và đêm, nhưng có thể sốt cao 39-40oC hoặc bệnh nhân không nhận ra là có sốt. Bệnh nhân thường ăn uống kém, chán ăn, đầy bụng, khó tiêu, mệt mỏi, ra mồ hôi trộm, gầy sút. Đau bụng âm ỉ kéo dài hoặc đau từng cơn với vị trí đau không rõ ràng, bụng trướng, rối loạn tiêu hóa (đại tiện phân táo lỏng thất thường). Bụng to dần lên thường ở mức độ vừa, cảm giác tức nặng. Bụng bè ngang, rốn lồi ở tư thế nằm. Khi bệnh nhân ngồi hoặc đứng, bụng sệ và lồi ra phía trước. Da bụng căng, nhẵn bóng, trắng như sáp nến. Khi thăm khám có thể thấy những mảng chắc, rải rác khắp bụng.

Ngoài ra có thể có hạch mềm, di động, không đau ở dọc cơ ức đòn chũm (nếu có hạch thì cần phải kiểm tra xem có lao hạch phối hợp không), cũng có thể có tràn dịch màng phổi hoặc màng tim phối hợp. Vì thế, khi có cổ trướng, phải thăm khám lâm sàng toàn diện để phát hiện tổn thương lao ở các nơi khác để xem có bị lao đa màng: màng bụng, màng phổi, màng tim (điều trị lao đa màng khó khăn, tiên lượng xấu).

Lao màng bụng thể cổ trướng là thể nhẹ, nếu được điều trị sớm, đúng phác đồ thì đa số diễn biến và tiên lượng tốt. Nếu không được điều trị tốt thì sẽ chuyển nhanh sang thể bã đậu hoá hoặc xơ dính hóa.

 

Ða số các bệnh nhân bị lao màng bụng là trẻ tuổi. Những người nghiện rượu nặng, suy giảm miễn dịch, làm việc quá sức nhất là trong điều kiện thiếu vệ sinh, thiếu ăn nhất là thiếu đạm và vitamin dễ mắc bệnh hơn. Trong giai đoạn sớm, bệnh khó phát hiện vì triệu chứng lâm sàng mờ nhạt, nghèo nàn, còn ở giai đoạn cuối là những biểu hiện lâm sàng rất phong phú do bệnh đã làm tổn thương các cơ quan khác. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh sẽ tiến triển phức tạp. Nhưng nếu phát hiện bệnh sớm và dùng thuốc chống lao theo đúng chỉ định của bác sĩ… sẽ có tiên lượng tốt.

 

 

BS. Trần Hạnh Hoa

]]>
Khoáng chất và thực phẩm cần cho người bệnh lao http://tapchisuckhoedoisong.com/khoang-chat-va-thuc-pham-can-cho-nguoi-benh-lao-5058/ Thu, 19 Jul 2018 13:24:28 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/khoang-chat-va-thuc-pham-can-cho-nguoi-benh-lao-5058/ [...]]]>

Biểu hiện khi bị lao phổi

Sốt là triệu chứng hay gặp ở người lao phổi. Sốt có thể ở nhiều dạng: sốt cao, sốt thất thường nhưng hay gặp nhất là sốt nhẹ hay gai lạnh về chiều, gầy, sút cân, ra mồ hôi trộm, chán ăn, mệt mỏi… ho, khạc đờm hoặc ho ra máu. Ho ra máu là triệu chứng có thể gặp ở 60% những người lao phổi. Các triệu chứng khác là: đau ngực, khó thở, có tiếng rên khu trú ở một vùng của phổi…

Nguyên tắc dinh dưỡng

Sức đề kháng và khả năng miễn dịch của người bị bệnh lao thường rất yếu. Hơn nữa, người bị bệnh lao dễ bị chán ăn, giảm hấp thu chất dinh dưỡng (kể cả các vi chất). Quá trình chuyển hóa cũng bị thay đổi theo chiều hướng tăng tiêu hao năng lượng và các chất dinh dưỡng dẫn đến sụt cân và thiếu dưỡng chất. Do đó, cải thiện tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân sẽ làm tăng hiệu quả điều trị bệnh lao, giúp bệnh nhân nhanh chóng hồi phục.

 

cừi dừa bổ sung kẽm cho người mắc bệnh lao

Cùi dừa già chứa nhiều kẽm là món ăn tốt bổ sung sự thiếu hụt kẽm của người bệnh lao.

 

Đối với người bị bệnh lao thì năng lượng nạp vào tùy theo thể trạng. Nếu gầy phải ăn nhiều để đạt chỉ số BMI (chỉ số khối cơ thể) trên 18,5. Nếu thể trạng bình thường thì năng lượng nạp vào không thay đổi. Điều quan trọng trong chế độ dinh dưỡng của bệnh là phải đủ 4 nhóm thực phẩm: đường, đạm, dầu mỡ, vitamin và khoáng chất. Ngoài ra, cần ưu tiên lượng đường từ quả chín để tốt cho gan thải độc do tác dụng phụ của thuốc.

Các vitamin và khoáng chất nào cần ưu tiên?

Kẽm: Do cơ chế hoạt động của các loại thuốc điều trị lao đã gây nên tình trạng thiếu hụt kẽm ở người bệnh, dẫn đến chán ăn, suy giảm hệ miễn dịch. Người bệnh nên chọn thực phẩm giàu kẽm như: sò, hến, con hàu, cùi dừa già, đậu Hà Lan, đậu tương, củ cải, lòng đỏ trứng gà, thịt lợn nạc…

Vitamin A, E, C: Đây là những chất quan trọng giúp tăng cường hệ miễn dịch, bảo vệ niêm mạc, giúp da khỏe mạnh, tránh nguy cơ bị nhiễm khuẩn, chống ôxy hóa nhưng những người bị bệnh lao lại dễ bị thiếu hụt. Có thể uống bổ sung ở dạng dược phẩm theo chỉ định của bác sĩ  hoặc ưu tiên chọn thực phẩm giàu các vitamin này như: rau tươi có màu xanh đậm, quả chín có màu vàng đỏ như cam, xoài, đu đủ, cà chua, cà rốt chứa nhiều vitamin A, C; gan súc vật và gia cầm, thịt đỏ như thịt lợn nạc, thịt bò, cá biển… đều chứa nhiều vitamin D.

Sắt: Nguy cơ thiếu máu do thiếu sắt ở người bệnh lao rất cao làm giảm sức đề kháng, dẫn đến dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn, tim mạch… Cần ăn những thực phẩm giàu sắt như: mộc nhĩ, nấm hương, đậu nành, lòng đỏ trứng, thịt bò, thịt nạc, gan…

Vitamin K, B6: Do người bệnh hấp thu kém, dễ gặp rối loạn tiêu hóa nên khả năng tổng hợp vitamin K giảm, gây trở ngại quá trình đông máu. Các vitamin này có nhiều trong các thực phẩm như: gan, các loại rau màu xanh đậm. Dùng thuốc điều trị lao thường phải dùng kéo dài (vài tháng) theo phác đồ chống lao, các thuốc này lại làm giảm khả năng hấp thụ vitamin B6 dễ gây viêm dây thần kinh ngoại biên, giảm miễn dịch do vậy ngoài uống vitamin B6 dạng dược phẩm bổ sung, người bệnh nên ăn thực phẩm chứa nhiều vitamin này như: thịt lợn nạc, thịt gà, đậu, đỗ các loại, khoai tây, chuối, súp lơ, ngũ cốc nguyên hạt…

Cần đa dạng món ăn: Do thể trạng yếu và tác dụng phụ của thuốc nên người bệnh dễ chán ăn, đòi hỏi phải đa dạng món ăn. Chọn những món người bệnh thích nhưng phải thường xuyên thay đổi để tạo sự kích thích. Nên chia nhỏ bữa ăn hằng ngày để người bệnh hấp thu tốt và đầy đủ hơn các chất dinh dưỡng cần thiết.

Lưu ý: Người bệnh tuyệt đối không được dùng các loại chất kích thích như rượu, bia, thuốc lá vì những chất này làm giảm tác dụng điều trị và tăng tác dụng phụ của thuốc.

BS. Trần Quang Nhật

]]>
Mối nguy lây truyền từ 3 triệu người bệnh lao chưa được chẩn đoán http://tapchisuckhoedoisong.com/moi-nguy-lay-truyen-tu-3-trieu-nguoi-benh-lao-chua-duoc-chan-doan-2631/ Thu, 19 Jul 2018 01:20:01 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/moi-nguy-lay-truyen-tu-3-trieu-nguoi-benh-lao-chua-duoc-chan-doan-2631/ [...]]]>

Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Huy Dũng, Giám đốc Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch cho biết, lao là bệnh truyền nhiễm lây lan qua không khí. 1/3 dân số thế giới bị nhiễm vi khuẩn lao thì đã có khoảng 5-10% bị bệnh. Đối với người mắc bệnh lao, các triệu chứng thường không rõ ràng trong nhiều tháng, dẫn đến chậm trễ trong chẩn đoán và điều trị cũng như trở thành nguy cơ lây truyền bệnh cho người khác.

Bệnh nhân khám bệnh tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Ảnh: Lê Phương.

Bệnh nhân khám bệnh tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Ảnh: Lê Phương.

Hàng năm ước tính có 9 triệu ca bệnh lao mới, khoảng 3 triệu ca không được chẩn đoán và điều trị. Trong 7 năm qua, số ca lao bị bỏ sót không được chẩn đoán gần như không đổi và càng tích lũy thêm mỗi năm. Những người mắc bệnh lao không được chẩn đoán thường do khó khăn trong tiếp cận nơi chăm sóc y tế, do không được chẩn đoán đúng, không được đăng ký hay báo cáo…

Khoảng một nửa số người bệnh lao đã tiêu tốn thời gian, tiền bạc đến cơ sở y tế khám bệnh nhưng không được chẩn đoán đúng. Sự thiếu hiểu biết về bệnh, rào cản về tài chính, sinh sống xa cơ sở y tế, sự mặc cảm… khiến việc chẩn đoán phát hiện bệnh bị chậm trễ.

Bệnh lao có thể được chữa khỏi bằng cách sử dụng thuốc theo phác đồ do thầy thuốc hướng dẫn. Từ năm 1995 đến nay, gần 22 triệu người được cứu sống, số ca tử vong từ năm 1990 đến nay đã giảm 45%. Nếu người bệnh điều trị không đủ thời gian, uống thuốc không đều đặn sẽ có thể bị thất bại hoặc sau này dễ bị tái phát với tình trạng lao kháng thuốc.

 Chủ đề và thông điệp chính của Ngày thế giới phòng chống lao 24/3 năm nay là “Tìm, điều trị và chữa khỏi cho mọi người”, đẩy nhanh tiến trình tiến tới không còn bệnh lao vào năm 2035.

Lê Phương

]]>