Phòng Bệnh – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com Thông tin sức khỏe cho cộng đồng Mon, 28 Jan 2019 14:26:21 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.5 http://tapchisuckhoedoisong.com/wp-content/uploads/2018/07/cropped-Icon-browser-32x32.png Phòng Bệnh – Tạp Chí Sức Khỏe Và Đời Sống http://tapchisuckhoedoisong.com 32 32 9 nguy cơ dễ làm khởi phát bệnh gút http://tapchisuckhoedoisong.com/9-nguy-co-de-lam-khoi-phat-benh-gut-17978/ Mon, 28 Jan 2019 14:26:21 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/9-nguy-co-de-lam-khoi-phat-benh-gut-17978/ [...]]]>

Bệnh gút là một dạng đau đớn tột cùng của bệnh viêm khớp, thường ảnh hưởng đến khớp ngón cái của bàn chân và các khớp khác. Các yếu tố dinh dưỡng (chẳng hạn như thịt đỏ và rượu), có thể gây ra cơn đau gút. Tuy nhiên, một số loại thuốc và tình trạng sức khỏe hoặc thói quen sinh hoạt có thể làm khởi phát cơn đau do bệnh gút.

Mất nước

Mất nước gây nhiều ảnh hưởng xấu cho sức khỏe, và bệnh gút là một trong số những bệnh chịu ảnh hưởng do mất nước. “Mất nước có thể làm tăng nồng độ acid uric trong máu và ở những người dễ bị tăng như vậy có thể đóng góp cho một đợt cấp bệnh gút” – TS. Theodore Vanitallie, giáo sư tại Đại học Columbia, Hoa Kỳ cho biết. Hằng ngày, cần uống đủ nước với 6-8 ly nước lọc mỗi ngày, đặc biệt là nếu bạn đang mắc bệnh gút hoặc có các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn khác của bệnh gút.

Thừa cân béo phì

Thừa cân và béo phì là một yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh gút. Nghiên cứu cho thấy, thừa cân và béo phì tạo điều kiện hình thành bệnh gút, do kích thích cơ thể tạo ra acid uric và ngăn chặn sự bài tiết acid uric ra khỏi cơ thể. Nếu thừa cân hay béo phì, giảm cân ngay có thể làm giảm nguy cơ bệnh gút. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo, chỉ số khối cơ thể (BMI) ở người Nam Á nên từ 18,5 – 23. Nếu chỉ số BMI trên 23 là thừa cân và trên 25 là bị béo phì. Duy trì một trọng lượng khỏe mạnh là một bước quan trọng để kiểm soát lượng acid uric máu.

bệnh gútBệnh gút xảy ra do lắng đọng tinh thể acid uric kết tinh ở các khớp và làm tổn thương các khớp.

Mãn kinh

Tăng nguy cơ bệnh gút có thể là một hậu quả không mong muốn của thời kỳ mãn kinh. Nguyên nhân do estrogen – một hormon giúp thận bài tiết acid uric, giảm xuống trong và sau thời kỳ mãn kinh. Tác dụng bảo vệ của estrogen cũng là lý do phụ nữ trước khi mãn kinh ít có khả năng bị bệnh gút so với nam giới. Phụ nữ sau khi mãn kinh nên cẩn thận để tránh các yếu tố nguy cơ khác của bệnh gút. Theo một số nghiên cứu, có thể hạn chế bệnh gút bằng cách tiêu thụ cà phê và vitamin C.

Chấn thương

Một chấn thương nhỏ như va chạm ngón chân cái có thể tạo điều kiện phát triển bệnh gút. Khớp bị chấn thương làm cho acid uric dễ lắng đọng hơn và có thể dẫn đến một đợt cấp của bệnh gút. Thoái hóa khớp, thường gặp ở người lớn tuổi, cũng liên quan với bệnh gút. Vì vậy, cố gắng tránh chấn thương ngón chân hoặc ngón tay, xoắn mắt cá chân hoặc các vi chấn thương liên tục trên một khớp.

Mang giày không vừa, không thoải mái

Mặc dù vẫn chưa có một nghiên cứu về tác dụng của đôi giày với nguy cơ bệnh gút, mang giày không thoải mái không tốt cho sức khỏe, nhất là bệnh tim mạch. Nếu cơ thể đang trong tình trạng có tăng acid uric máu, mang giày chật, không vừa bàn chân và không thoải mái dễ gây những lực nén không tốt trên các khớp bàn chân, tạo điều kiện lắng đọng acid uric ở các khớp bị thương tổn kéo dài do chèn ép, dễ dẫn đến bệnh gút. Phụ nữ nên lựa chọn giày gót thấp để giảm bớt các lực ép trên các ngón chân hoặc hạn chế thời gian đi giày cao gót.

Tiền sử gia đình

Tiền sử gia đình là một yếu tố có tác động lớn đến nguy cơ bệnh gút nằm ngoài kiểm soát của cá nhân. Khoảng 20% bệnh nhân bị gút có tiền sử gia đình mắc bệnh gút. Nếu bạn có tiền sử gia đình bị gút, cần phải nhận thức rõ các yếu tố nguy cơ khác, đặc biệt là khi bạn có tuổi. Đàn ông vào độ tuổi 40 có nguy cơ cao nhất của bệnh gút, phụ nữ sau mãn kinh cũng gia tăng nguy cơ bị bệnh gút. Nên tránh các yếu tố nguy cơ và thực phẩm dễ hình thành bệnh gút.

Thuốc lợi tiểu thiazide

Những loại thuốc uống này làm tăng bài tiết nước tiểu để giúp kiểm soát tăng huyết áp. Do thận kéo chất lỏng ra khỏi cơ thể kèm tăng đào thải acid uric, dẫn đến làm tăng nguy cơ tái tạo của acid uric trong cơ thể và nguy cơ gây ra bệnh gút. Thuốc lợi tiểu thiazide có thể gây ra sự mất cân bằng chất lỏng trong cơ thể. Các triệu chứng của mất cân bằng bao gồm cảm giác khát nước, khô miệng, buồn ngủ, lú lẫn, co giật, tăng nhịp tim và giảm lượng nước tiểu. Tăng nồng độ acid uric do việc sử dụng các thuốc lợi tiểu thiazide có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tim mạch vành và nhồi máu cơ tim (theo HealthCentral.com).

Aspirin

Aspirin, còn gọi acid acetylsalicylic, là một thuốc kháng viêm và giảm đau có thể làm thay đổi nồng độ acid uric máu và hình thành bệnh gút. Dùng liều thấp aspirin, sử dụng không thường xuyên, có thể gây ra sự gia tăng nồng độ acid uric, nhưng với liều cao của aspirin có thể làm giảm nồng độ acid uric máu.

Thuốc chống thải  ghép

Thuốc chống đào thải mảnh ghép, như cyclosporin, có thể làm tăng nồng độ acid uric trong máu và làm tăng nguy cơ phát triển bệnh gút. Các loại thuốc này làm tăng sự sống còn của người đã trải qua phẫu thuật ghép tạng, như tim, thận và tủy xương. Cyclosporine cũng có thể chữa các bệnh như viêm khớp dạng thấp và bệnh vẩy nến. Rối loạn chức năng thận có thể xảy ra khi dùng thuốc chống đào thải mảnh ghép, khi thận bị thương tổn làm mất khả năng loại bỏ hiệu quả acid uric ra khỏi cơ thể, có thể làm nồng độ acid uric máu tăng.

 

Acid uric là một sản phẩm từ quá trình chuyển hóa purin trong cơ thể. Nếu cơ thể có quá nhiều purin, do khuynh hướng tự nhiên hoặc do ăn các loại thực phẩm giàu purin, dẫn đến acid uric trong máu tăng. Bệnh gút xảy ra do lắng đọng tinh thể acid uric kết tinh ở các khớp và làm tổn thương các khớp. Người bệnh có các triệu chứng đau, viêm và sưng. Ngoài ra, dùng một số thuốc hoặc tình trạng sức khỏe của cơ thể hoặc thói quen sinh hoạt có thể làm tăng nồng độ acid uric máu, dễ dẫn đến bệnh gút.

TS.BS. Lê Thanh Hải

((Theo Livestrong.com và Health.com))

]]>
Chăm sóc răng miệng bằng chỉ tơ nha khoa http://tapchisuckhoedoisong.com/cham-soc-rang-mieng-bang-chi-to-nha-khoa-17977/ Mon, 28 Jan 2019 14:25:51 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/cham-soc-rang-mieng-bang-chi-to-nha-khoa-17977/ [...]]]>

Tôi dùng thử thấy khó khăn, thi thoảng vẫn thấy chảy máu khi dùng chỉ. Và thực sự tôi không hiểu nhiều về lợi ích của việc dùng chỉ nha khoa, vậy xin bác sĩ tư vấn giúp!

Bùi Thanh (Thái Nguyên)

Đánh răng đúng phương pháp là cách hiệu quả nhất để phòng bệnh sâu răng và bệnh nha chu cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, nếu chỉ đánh răng không mà bỏ qua việc kết hợp với việc sử dụng chỉ tơ nha khoa thì cũng chỉ làm sạch được 70% chất bẩn ở răng và nướu. Chỉ tơ nha khoa thường có 2 dạng chính: dạng cuộn chỉ và dạng đoạn chỉ ngắn gắn trên một khung nhỏ. Chỉ tơ có thể có sáp hoặc không có sáp, đường kính lớn hay nhỏ tùy theo nhu cầu sử dụng của người dùng.

Ngoài ra, người ta có thể thêm vào chỉ một hoặc nhiều chất như sodium fluoride, stannous fluoride, chất kháng sinh, kháng amip, chất ức chế sự lên men, chất chống ung thư, chlorexidine, triclosan, hương liệu… Chỉ tơ nha khoa thích hợp và tốt phải là loại chỉ dễ sử dụng và không gây chấn thương lên nướu răng. Khi dùng chỉ nha khoa, đừng lo lắng nếu có chảy một ít máu ở vùng nướu. Đây là hiện tượng bình thường, nhất là trong trường hợp không sử dụng chỉ nha khoa thường xuyên. Nếu dùng chỉ nha khoa mỗi ngày, hiện tượng chảy máu sẽ ngày càng ít đi và sẽ biến mất sau một thời gian.

Cần lưu ý, việc chải răng và dùng chỉ tơ nha khoa phải được thực hiện trên cả nướu và từng răng một cho cả hàm trên lẫn hàm dưới, đặc biệt là ở các mặt xa răng hàm trong cùng vì nơi này thường bị bỏ sót khi đánh răng.

BS. Nguyễn Văn Thành

]]>
Cách phòng bệnh sởi Đức http://tapchisuckhoedoisong.com/cach-phong-benh-soi-duc-17952/ Sat, 26 Jan 2019 14:25:55 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/cach-phong-benh-soi-duc-17952/ [...]]]>

Cháu đi khám bác sĩ nói bị bệnh sởi Đức. Xin bác sĩ giải thích rõ hơn về bệnh và cách phòng ngừa? (khi nhỏ cháu đã được tiêm vắc-xin sởi)

Đỗ Kim Thanh (kimthanh @gmail.com)

Bệnh sởi Đức (còn gọi bệnh Rubella) – là bệnh truyền nhiễm do virut gây ra. Biểu hiện chính của bệnh là sốt, phát ban và nổi hạch sau tai. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi. Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc gần với người bị bệnh. Sau khi virut vào cơ thể độ 2-3 tuần, bệnh nhân bắt đầu có các triệu chứng chính là sốt, phát ban và nổi hạch. Sốt, đau đầu, mệt mỏi thường xuất hiện từ 1-4 ngày, sau đó phát ban và giảm sốt; hạch nổi chủ yếu ở các vùng xương chẩm, khuỷu tay, bẹn, cổ. Sờ thấy hơi đau. Hạch thường nổi trước phát ban và tồn tại vài ngày sau khi ban bay hết; Phát ban là dấu hiệu dễ phát hiện nhất. Ban mọc lúc đầu ở trên đầu, mặt, rồi mọc khắp toàn thân và thường không tuần tự như sởi. Nốt ban có hình tròn hoặc bầu dục, đường kính chừng 1-2mm, các nốt có thể hợp thành từng mảng hoặc đứng riêng rẽ. Trong vòng 24 giờ ban mọc khắp người và chỉ sau 2 – 3 ngày là bay hết. Bệnh thường lành tính trừ khi đang mang thai mắc bệnh thì sẽ nguy hiểm cho thai. Trường hợp của cháu mắc bệnh là do chưa tiêm phòng bệnh Rubella. Tuy khi nhỏ cháu đã tiêm vắc-xin sởi nhưng đó là vắc-xin sởi đơn giá chỉ phòng được bệnh sởi thôi. Còn nếu tiêm loại đa giá (sởi- quai bị– Rubella) hoặc đã mắc thì sẽ có miễn dịch suốt đời và không cần tiêm nữa.

BS. Vũ Lan Anh

]]>
Cảnh báo các bệnh dễ bùng phát dịp Tết Nguyên đán http://tapchisuckhoedoisong.com/canh-bao-cac-benh-de-bung-phat-dip-tet-nguyen-dan-17939/ Fri, 25 Jan 2019 14:25:19 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/canh-bao-cac-benh-de-bung-phat-dip-tet-nguyen-dan-17939/ [...]]]>

Không chủ quan với dịch bệnh mùa đông xuân

Ông Phu cho hay, trong dịp Tết và lễ hội 2019, điều kiện khí hậu đông xuân, nhiệt độ môi trường liên tục thay đổi làm cơ thể con người giảm sức đề kháng, nên người yếu nhất là trẻ em không thích nghi kịp rất dễ nhiễm bệnh. Hơn nữa, điều kiện thời tiết này cũng rất thuận lợi cho các mầm bệnh phát triển và lây lan, làm tăng nguy cơ mắc bệnh, nhất là với các bệnh như cúm, bệnh đường hô hấp như viêm phế quản, viêm phổi, sởi, Rubella, liên cầu lợn, tiêu chảy.

Điều trị cho bệnh nhi mắc sởi tại BV Nhi Trung ương. Ảnh: TM

Điều trị cho bệnh nhi mắc sởi tại BV Nhi Trung ương. Ảnh: TM

Riêng với bệnh sởi đang bùng phát dịch, Cục trưởng Trần Đắc Phu cho biết năm 2018, đặc biệt 3 tháng cuối năm có trên 9.700 người mắc sốt phát ban nghi sởi, số có xét nghiệm dương tính với bệnh sởi gần 2.000 ca. So với cùng kỳ 2017, số sốt phát ban nghi sởi cao gấp 21 lần, số có dương tính với bệnh sởi tăng 13 lần. Trong các tuần đầu năm 2019, tiếp tục ghi nhận bệnh nhân sởi cả người lớn và trẻ em ở nhiều địa phương, đặc biệt tại các tỉnh thành phía Nam – vùng vốn không “truyền thống” của bệnh sởi như: Đồng Nai, Bình Dương, TP.HCM dịch cũng gia tăng mạnh. Trong số trẻ mắc bệnh, thống kê của Bộ Y tế cho thấy có trên 50% chưa tiêm chủng, gần 40% tiêm chưa đủ mũi hoặc không rõ tiền sử tiêm chủng, có 10% các cháu tiêm đủ 2 mũi vắc-xin ngừa sởi.

Ông Phu cũng cảnh báo về bệnh liên cầu lợn, mặc dù chỉ ghi nhận rải rác, lẻ tẻ chủ yếu tại các tỉnh miền Bắc, nhưng tỷ lệ tử vong vì mắc liên cầu lợn rất cao. Theo khuyến cáo của Bộ Y tế, không ăn tiết canh và các sản phẩm từ thịt lợn chưa được nấu chín, không mua bán, giết mổ lợn ốm hoặc sản phẩm từ lợn không đảm bảo vệ sinh. Khi có biểu hiện mắc bệnh, cần đến ngay cơ sở y tế để được khám và điều trị kịp thời. “Điều đáng nói, ngay cả lợn khỏe cũng có thể nhiễm khuẩn liên cầu lợn, do vậy tuyệt đối không ăn tiết canh lợn”, ông Phu nhấn mạnh.

Cũng theo Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng, với những người mắc bệnh mạn tính thì đây cũng là thời gian để bệnh dễ tiến triển thành các đợt cấp, nặng hơn nhất là với người già và trẻ em. “Hơn nữa sự gia tăng sử dụng thực phẩm và giao lưu đi lại của người dân trong dịp Tết và mùa lễ hội 2019 làm tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh lây truyền qua đường hô hấp, tiêu hóa”, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng nói.

Quyết liệt nhiều biện pháp tăng cường phòng chống dịch bệnh

Để phòng chống bệnh trong dịp Tết Nguyên đán, ông Đặng Quang Tấn – Phó Cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho biết, thời gian qua Bộ Y tế đã triển khai quyết liệt nhiều biện pháp tăng cường các hoạt động phòng chống dịch bệnh; tăng cường công tác phòng chống bệnh xâm nhập, bệnh lưu hành, phòng chống bệnh sởi, rà soát, đánh giá, xác định đối tượng, độ tuổi, vùng nguy cơ cao bùng phát dịch bệnh để tổ chức chiến dịch tiêm bổ sung, tiêm vét vắc-xin phòng bệnh.

Bộ Y tế cũng đã tổ chức các đoàn kiểm tra công tác phòng, chống dịch bệnh, thanh kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm về an toàn thực phẩm tại các tỉnh, thành phố trọng điểm. Công tác giám sát cũng được tăng cường tại cộng đồng và cửa khẩu, phát hiện sớm, xử lý triệt để ổ dịch, không để dịch xâm nhập, lây lan ra diện rộng.

“Bộ Y tế cũng đã chỉ đạo các cơ sở khám, chữa bệnh tăng cường công tác điều trị bệnh tay chân miệng, sởi, sốt xuất huyết và sẵn sàng cung ứng thuốc phòng, chống bệnh sốt xuất huyết và bệnh sởi. Tổ chức tốt công tác thu dung, cấp cứu, phân luồng khám bệnh, phân tuyến điều trị bệnh nhân, thiết lập khu vực riêng khám, cách ly điều trị, cấp cứu bệnh nhân sởi, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp tử vong, thực hiện nghiêm việc kiểm soát nhiễm khuẩn, phòng chống lây nhiễm chéo tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh”- ông Phu cho biết thêm.

 

8 khuyến cáo phòng chống dịch bệnh sởi của Bộ Y tế

1. Chủ động thực hiện tiêm chủng vắc-xin, đây là biện pháp phòng bệnh đặc hiệu và tốt nhất phòng bệnh sở. Đưa trẻ từ 9-12 tháng đến cơ sở y tế để được tiêm vắc-xin phòng sởi mũi 1, tiêm nhắc lại mũi 2 khi trẻ đủ 18 tháng tuổi. Trẻ trên 5 tuổi và người lớn chưa được tiêm vắc-xin sởi cần được tiêm vắc-xin tại các điểm tiêm chủng dịch vụ.

2. Thường xuyên vệ sinh đường mũi, họng, mắt hàng ngày.

3. Không cho trẻ em dùng chung vật dụng cá nhân, đồ chơi. Làm sạch đồ chơi bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa thông thường với nước sạch.

4. Lau sàn nhà, nắm đấm cửa, mặt bàn, ghế, khu vệ sinh chung hoặc bề mặt của đồ vật nghi ngờ bị ô nhiễm bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa thông thường từ 1 – 2 lần/ngày.

5. Thường xuyên mở cửa sổ, cửa chính để ánh nắng chiếu vào và đảm bảo thông khí thoáng cho nhà ở, phòng học, phòng điều trị hàng ngày.

6. Cho trẻ nghỉ học khi mắc bệnh.

7. Hạn chế tiếp xúc với người mắc hoặc người nghi mắc bệnh, khi phải tiếp xúc với người bệnh phải đeo khẩu trang y tế và các trang bị phòng hộ cá nhân.

8. Khi có các dấu hiệu của bệnh sởi (sốt, ho, chảy nước mũi, phát ban) cần sớm cách ly và đưa trẻ đến các cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám, tư vấn điều trị kịp thời.

 

Thái Bình

]]>
Không chủ quan với bệnh sởi http://tapchisuckhoedoisong.com/khong-chu-quan-voi-benh-soi-17937/ Fri, 25 Jan 2019 14:24:50 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/khong-chu-quan-voi-benh-soi-17937/ [...]]]>

Bệnh lây qua đường hô hấp, lây trực tiếp khi bệnh nhân ho, hắt hơi, nói chuyện do virut có trong các giọt nước bọt nhỏ li ti bắn ra không khí.

Tại sao trẻ bị mắc bệnh sởi?

Trẻ mắc bệnh sởi nguyên nhân chủ yếu là thiếu kháng thể chống lại virut sởi. Khi trẻ mới sinh ra cho đến tháng thứ 8 – 9, trẻ được mẹ truyền kháng thể chống sởi, nhưng sau đó, lượng kháng thể chống sởi do mẹ truyền sẽ giảm xuống nhanh chóng, nếu gặp virut sởi, trẻ sẽ bị bệnh. Đó là các trẻ được mẹ truyền kháng thể chống sởi đủ mạnh, ngược lại, nếu người mẹ có ít kháng thể chống sởi hoặc mẹ không có kháng thể chống sởi thì trẻ sinh ra sẽ không có kháng thể chống sởi do mẹ truyền. Những người mẹ nào lúc còn trẻ chưa mắc bệnh sởi bao giờ hoặc chưa được tiêm vắc-xin phòng bệnh sởi sẽ không có kháng thể để truyền cho con.

Một lý do rất quan trọng đối với trẻ lớn hơn 9 tháng tuổi mắc bệnh sởi có thể trẻ chưa được tiêm vắc-xin phòng sởi hoặc chưa tiêm nhắc lại theo khuyến cáo của ngành y tế hoặc do chống chỉ định tạm thời. Người lớn nếu chưa có miễn dịch chống sởi rất có thể bị bệnh sởi.

Cần cho trẻ tiêm phòng đúng lịch để không bị mắc sởi .

Cần cho trẻ tiêm phòng đúng lịch để không bị mắc sởi .

Đường lây truyền bệnh sởi

Trẻ chưa có kháng thể chống sởi sẽ dễ dàng bị lây nhiễm virut sởi khi hít phải các hạt nước bọt này. Trẻ cũng có thể nhiễm virut sởi nếu như để tay tiếp xúc với sàn nhà, đồ chơi, khăn mặt, quần áo… có virut sởi, từ đó đưa tay lên miệng hoặc mũi làm lây nhiễm virut. Những trẻ mắc bệnh sởi có khả năng lây bệnh cho trẻ khác từ khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên cho đến thời điểm 4 ngày sau khi vết ban đầu tiên xuất hiện. Bệnh dễ lây lan thành dịch ở những khu vực đông người như nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, khu đông dân cư…

Triệu chứng

Khoảng 10 – 12 ngày sau khi tiếp xúc với virut sởi, trẻ bắt đầu có các triệu chứng đầu tiên. Bệnh khởi phát là sốt đột ngột trên 380C, mắt ướt, nhiều gỉ làm cho mắt bị kèm nhèm, kèm theo viêm đường hô hấp trên (chảy mũi nước, ho) và có thể bị rối loạn tiêu hoá (tiêu chảy). Khi bệnh toàn phát, sốt rất cao, có khi thân nhiệt lên tới 39 – 400C, thể trạng li bì, mệt mỏi nhiều, sau đó ban sởi xuất hiện đầu tiên ở vùng da sau tai rồi lan ra mặt, mắt, cổ, thân mình và tứ chi trong vòng từ 1 – 2 ngày. Khi hết sốt, ban sởi bắt đầu mất dần (sởi bay) và sau khi sởi bay có để lại các nốt thâm trên da trong một thời gian làm cho da bị loang lổ trông giống da hổ. Các ban của sởi mất dần theo tuần tự, tức là nơi nào xuất hiện trước thì ban bay trước (sau tai, mặt), nơi nào ban xuất hiện sau sẽ bay sau.

Biến chứng nguy hiểm của bệnh

Ngay sau khi mắc sởi, sức đề kháng của trẻ giảm một cách đáng kể, vì vậy, trẻ rất dễ bị biến chứng bởi sự tấn công của vi khuẩn do bội nhiễm hoặc virut khác không phải virut sởi. Biến chứng hay gặp nhất là gây tiêu chảy, viêm thanh quản, viêm phế quản, đặc biệt là viêm phổi từ mức độ nhẹ đến nặng có thể dẫn đến tử vong nếu không cấp cứu kịp thời, nhất là khi trẻ dưới 1 tuổi. Nguy hiểm nhất là một số bệnh nhi bị sởi có thể bị biến chứng viêm não – màng não.

Ngoài ra, bệnh sởi cũng có thể gây biến chứng viêm tai, viêm xoang, viêm răng lợi (đặc biệt là gây nên bệnh cam tẩu mã), viêm loét giác mạc mắt.

Đối với phụ nữ mang thai, nếu mắc sởi có thể dẫn đến sẩy thai, đẻ non.

Nguyên tắc điều trị

Khi trẻ nghi bị sởi, cần có chẩn đoán xác định của cơ sở y tế (bệnh viện) để được điều trị và cách ly kịp thời. Hiện nay, bệnh sởi vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Cách chữa chủ yếu là cải thiện triệu chứng, vệ sinh cá nhân và chế độ dinh dưỡng hợp lý.

Nguyên tắc phòng bệnh

Tại gia đình có trẻ bị sởi, không cho trẻ tiếp xúc với trẻ lành. Trẻ bị sởi phải nghỉ học để tránh lây lan cho trẻ khác trong lớp học hoặc các lớp học khác ở trong trường. Cần đeo khẩu trang khi tiếp xúc với trẻ bệnh sởi và người nghi bị sởi (nếu trẻ lớn cũng cần đeo khẩu trang để hạn chế mầm bệnh lây sang người khác).

Các bậc phụ huynh cần đưa trẻ trong diện được tiêm chủng đến Trung tâm y tế hoặc Trạm y tế xã, phường để được tiêm vắc-xin phòng bệnh sởi (tiêm vắc-xin phòng bệnh sởi mũi đầu khi trẻ được 9 tháng, mũi 2 khi trẻ được 18 tháng). Cần lưu ý các trẻ chưa được tiêm vắc-xin sởi do bỏ sót hoặc lần tiêm trước cháu thuộc diện chống chỉ định tạm thời (ví dụ đang mắc một bệnh nhiễm trùng khác như viêm VA, viêm amiđan, viêm họng, viêm phế quản…), sau khi khỏi bệnh, trẻ cần được tiêm vắc-xin sởi như các trẻ khác.

Các nhà trẻ, cơ sở nuôi dạy trẻ (đặc biệt cơ sở đã có trẻ bị sởi) hàng ngày cần đảm bảo tắm, rửa (bằng nước ấm), sạch sẽ cho trẻ, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng sát khuẩn. Cần vệ sinh sàn nhà, dụng cụ đồ chơi bằng cách lau chùi bằng xà phòng hoặc thuốc sát khuẩn (do cán bộ y tế xã, phường hướng dẫn về tỷ lệ pha dung dịch sát khuẩn để lau sàn nhà, dụng cụ đồ chơi của trẻ).

 

Năm 2018, ca bệnh sởi xuất hiện rải rác ở một số địa phương. PGS.TS. Trần Như Dương – Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương phân tích: Hiện số ca mắc sởi ghi nhận khoảng 90 ca, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm ngoái (trong năm 2017, cả nước chỉ ghi nhận 141 trường hợp mắc sởi, chủ yếu tại miền Bắc). Bệnh sởi có thể gia tăng mạnh trong năm nay, đặc biệt với trẻ dưới 9 tháng tuổi.

BS. Việt Anh

]]>
Rét đậm, rét hại, dễ mắc bệnh gì? http://tapchisuckhoedoisong.com/ret-dam-ret-hai-de-mac-benh-gi-17929/ Thu, 24 Jan 2019 14:26:45 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/ret-dam-ret-hai-de-mac-benh-gi-17929/ [...]]]>

Vì vậy, việc nhận biết để xử trí tình huống nguy hiểm và chủ động phòng bệnh là vô cùng quan trọng.

Tê cóng: chớ xem thường

Vào mùa đông thời tiết lạnh buốt, đối với những người lao động chân tay mà phải làm việc ngoài trời rất dễ bị tê cóng. Tê cóng xảy ra khi da và các mô bên dưới da “đóng băng” khi tiếp xúc với thời tiết lạnh và nhiều gió. Tình trạng tê cóng quá nghiêm trọng có thể dẫn tới da bị phồng rộp hoặc chuyển màu đen do hoại tử các mô bên trong.

Tê cóng được chia thành ba mức độ: Độ 1: Lạnh buốt, tê và da tái nhợt, có thể rộp da nếu được sưởi ấm tức thì; Độ 2: Tê cóng bên ngoài, phần da bên ngoài lạnh cứng nhưng mô bên dưới vẫn còn co giãn bình thường. Có thể bị rộp da; Độ 3: Tê cóng sâu. Da trắng nhợt hoặc thâm tím. Da và mô bên dưới cứng và rất lạnh.

Điều đầu tiên cần làm là cách ly với giá lạnh, làm nóng vùng da này một cách dần dần, đây là chìa khóa để điều trị tê cóng. Có thể sưởi ấm các vùng như tai, mặt, mũi, các ngón tay, ngón chân bằng hơi thở ấm của mình hoặc áp phần chân tay có quần áo ấm vào nơi da bị lộ ra ngoài. Tránh để phần cơ thể bị cóng nhiễm lạnh thêm. Nếu có thể, ngâm vùng tê cóng vào nước ấm trong 10-15 phút. Chú ý: Không hơ lửa sưởi ấm lại ngay vùng bị tê cóng. Không chà xát hoặc xoa bóp phần cơ thể bị tê cóng để tránh gây tổn thương cho các mô. Nếu có thể, tránh đi lại khi chân bị tê cóng. Nếu bị rộp da khi sưởi, không bóc da vùng bị rộp. Da có thể bị tấy đỏ, bỏng, nóng rát hoặc rất đau. Đối với tê cóng độ 3 nghĩa là da tái nhợt, cứng và lạnh sau khi sơ cứu cần đến cơ sở y tế nhất để được tư vấn và điều trị.

Để phòng tê cóng, cần mặc phù hợp với thời tiết, trang bị đầy đủ áo khoác, găng tay, mũ, tất ấm khi ra ngoài. Nên lựa chọn các loại áo khoác, găng tay, mũ… làm từ vật liệu chống thấm ướt, phù hợp với thời tiết mùa đông lạnh, ẩm ướt và nhiều gió.

Trời lạnh không nên tập thể dục vào sáng sớm. Ảnh: TM

Trời lạnh không nên tập thể dục vào sáng sớm. Ảnh: TM

 

Dễ bị hạ thân nhiệt do lạnh

Hạ thân nhiệt là khi cơ thể còn 35 độ C. Người già, trẻ em và người gầy là những người rất dễ có nguy cơ. Một số tình trạng khác khiến người ta dễ bị hạ thân nhiệt là suy dinh dưỡng, bệnh tim mạch và thiểu năng tuyến giáp.

Các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm: run lẩy bẩy, nói lắp bắp, nhịp thở chậm bất thường. Da lạnh, xám, mất phối hợp động tác, mệt mỏi, bơ phờ hoặc thờ ơ,… Các triệu chứng thường diễn biến chậm. Người bị hạ thân nhiệt thường bị mất dần ý thức và năng lực thể chất, do đó có thể không ý thức được sự cần thiết phải điều trị cấp cứu. Nguy hiểm của hạ thân nhiệt là nạn nhân không biết, chỉ tới khi mệt mỏi, đầu óc lơ mơ, rùng mình thành đợt, da tái xanh, đồng tử giãn và mất tỉnh táo là đã mất ý thức.Do đó khi trời lạnh thấy ai đó run lẩy bẩy, nói lắp bắp, da lạnh, xám,… nên giúp họ quấn chăn và đốt lửa sưởi cho tới khi cơ thể ấm lại.

Không nên chườm nóng trực tiếp. Không dùng nước nóng, đệm sưởi hoặc đèn sưởi để làm ấm nạn nhân. Thay vào đó, hãy đặt gạc ấm lên cổ, lồng ngực và háng của bệnh nhân. Không cố làm ấm tay và chân. Làm nóng tay và chân thúc đẩy máu lạnh trở về tim, phổi và não, gây hạ thân nhiệt trung tâm. Điều này có thể gây tử vong. Không cho người bệnh uống rượu, hãy cho người bệnh uống nước ấm không có cồn, trừ khi người bệnh bị nôn. Không xoa bóp hoặc chà xát người bệnh. Các động tác với người bị hạ thân nhiệt phải nhẹ nhàng vì bệnh nhân có nguy cơ ngừng tim.

Để bảo vệ sức khỏe và phòng chống hạ thân nhiệt, hãy áp dụng các biện pháp sau: Luôn giữ nhiệt độ trong nhà đủ ấm. Đóng cửa sổ, lấp kín các khe hở làm mất nhiệt mà hơi lạnh lùa vào. Nếu không có các thiết bị làm ấm, cần mặc thêm áo ấm như áo len. Khi ra ngoài lạnh, cần mặc đủ ấm. Ngoài ra cần đội mũ, đi găng tay len, đeo khẩu trang (che mũi miệng để khỏi mất nhiệt qua hơi thở). Nếu quần áo, cơ thể bị ướt thì cần lau khô, thay quần áo ngay. Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng vì mùa đông cần nhiều thực phẩm hơn để có nhiều nhiệt năng. Không uống rượu bia mặc dù chúng có thể tạo cảm giác ấm người ngay tức khắc nhưng sau đó có thể khiến cơ thể hạ nhiệt bất ngờ. Người cao tuổi và trẻ em là những đối tượng dễ bị hạ thân nhiệt, vì vậy cần sự quan tâm đặc biệt, nhất là về đêm khi thời tiết lạnh và có các bệnh lý khác đi kèm.

Tăng nguy cơ đột quỵ

Trời lạnh, người có bệnh tim mạch chuyển biến xấu hơn, nguy cơ suy tim, đột quỵ, tai biến… tăng cao hơn so các mùa khác. Đột quỵ là tình trạng suy giảm chức năng của não một cách đột ngột, vùng não bị ảnh hưởng không được cung cấp đủ lượng máu cần thiết dẫn đến bị tổn thương. Thời tiết lạnh giá khiến mạch máu giảm tính đàn hồi, lòng mạch bị thu hẹp nên lưu lượng máu đến não giảm. Mặt khác, huyết áp dễ tăng cao dẫn đến tăng áp lực trong lòng mạch. Với người bị xơ vữa động mạch, nguy cơ mạch máu dễ bị tắc, thậm chí có thể vỡ dẫn đến xuất huyết não, đột quỵ Thực tế, không ít người bị đột quỵ lúc sáng sớm 4-5 giờ sáng, vì dậy đi vệ sinh, gặp gió lạnh dẫn đến tai biến. Trong trường hợp này, nhiều người tưởng mình bị cảm, gọi người nhà đánh gió sẽ rất nguy hiểm bởi việc cạo gió, uống nước đường, nước gừng giải cảm sẽ càng khiến cho việc chảy máu nặng thêm.

Thời gian từ lúc đột quỵ xuất hiện đến khi bắt đầu điều trị là cực kỳ quan trọng. Đây được gọi là “thời gian vàng” quyết định đến sự sống chết của người bệnh cũng như hạn chế tối đa tổn thương não. Người bị đột quỵ nhẹ có thể để lại các di chứng như chân tay run rẩy, đi lại khó khăn; nặng thì nằm liệt hoặc tử vong.

Khi phát hiện người đột quỵ cần sơ cứu bằng cách: để bệnh nhân nằm yên, nới rộng quần áo, theo dõi sắc mặt, nhịp thở. Nếu bệnh nhân nôn, cần để đầu nghiêng sang một bên, dùng tay lấy các chất nôn từ mũi và miệng bệnh nhân. Nếu bệnh nhân co giật, cần để bệnh nhân nằm nghiêng đề phòng bệnh nhân cắn vào lưỡi. Nếu thấy người bệnh có những cơn đau đầu dồn dập, buồn nôn thì nên đưa đến bệnh viện càng sớm càng tốt.

Muốn phòng chống đột quỵ, người già và những người có nguy cơ cao (tăng huyết áp, bệnh tim mạch) cần chú ý kiểm soát huyết áp, cholesterol của mình, ngưng hút thuốc lá, tránh uống rượu bia, ăn thức ăn ít mỡ và kiểm tra mỡ trong máu định kỳ. Mùa đông khi ra ngoài phải mặc ấm, không nên ra khỏi nhà vào ban đêm và tập thể dục vào sáng sớm, khi trời còn lạnh; khi cần phải ra ngoài nhất thiết phải mặc đủ ấm.

BSCKII.Trần Văn Trung

]]>
8 cách cần áp dụng ngay lập tức để không bị bệnh sởi tấn công http://tapchisuckhoedoisong.com/8-cach-can-ap-dung-ngay-lap-tuc-de-khong-bi-benh-soi-tan-cong-17927/ Thu, 24 Jan 2019 14:25:41 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/8-cach-can-ap-dung-ngay-lap-tuc-de-khong-bi-benh-soi-tan-cong-17927/ [...]]]>

Bệnh sởi dễ lây, nhiều biến chứng nguy hiểm

Theo PGS.TS Trần Đắc Phu – Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), bệnh sởi là bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi rút sởi gây nên. Bệnh xuất hiện quanh năm nhưng thường xảy ra vào mùa đông – xuân, với tốc độ lây nhiễm rất cao từ người sang người, chủ yếu qua đường hô hấp. Chỉ có thể ngăn chặn được sự lây lan của dịch bệnh khi cộng đồng dân cư được tiêm chủng vắc xin phòng bệnh đầy đủ. Người chưa bị mắc bệnh hoặc chưa được gây miễn dịch đầy đủ bằng vắc xin phòng bệnh sởi đều có thể mắc bệnh.

Bệnh sởi có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm tai giữa, viêm phổi, tiêu chảy, khô loét giác mạc mắt, viêm phế quản, viêm phổi, viêm não… có thể dẫn đến tử vong, đặc biệt ở trẻ nhỏ bị mắc sởi trong khi cơ thể đã có bệnh nền. Đối với phụ nữ bị mắc sởi khi mang thai có thể gây ra sảy thai, đẻ non.

Theo các chuyên gia dịch tễ, trên thế giới trong năm 2018 bệnh sởi vẫn ghi nhận tại 184/194 quốc gia và vùng lãnh thổ, đặc biệt có sự gia tăng số mắc tới 2,6 lần tại khu vực châu Âu, trong đó có một số nước đã công bố loại trừ bệnh sởi.

Tại Việt Nam, bệnh sởi có xu hướng gia tăng rải rác, cục bộ từ những tháng cuối năm 2018 đến nay, chủ yếu tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, các thành phố lớn như thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh có nhiều khu công nghiệp lớn như Đồng Nai, Bình Dương… Đối tượng mắc bệnh chủ yếu chưa được tiêm vắc xin phòng bệnh sởi ở trẻ em, nhưng đã ghi nhận nhiều người lớn mắc bệnh, trong đó có phụ nữ mang thai.

Bệnh sởi có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Ảnh minh họa.

Để phòng chống bệnh sởi, giảm số trẻ không được tiêm vắc xin qua nhiều năm, Bộ Y tế đã tổ chức 02 chiến dịch tiêm vắc xin sởi – rubella tại 88 huyện của 19 tỉnh có nguy cơ cao và tiếp tục triển khai chiến dịch tiêm bổ sung vắc xin sởi – rubella cho trẻ 1-5 tuổi cho khoảng 4,2 triệu trẻ tại 418 huyện của 57 tỉnh, thành phố từ cuối năm 2018 đến nay, đồng thời đẩy mạnh tiêm vắc xin sởi trong Chương trình tiêm chủng mở rộng định kỳ hàng tháng.

Phòng bệnh sởi cách nào?

Hiện nay đang trong mùa đông xuân, với sự gia tăng giao lưu, du lịch, cùng với tỷ lệ tiêm vắc xin còn chưa cao tại khu vực có mật độ dân cư cao, thường xuyên biến động dân cư, các thôn, bản vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc sinh sống khó tiếp cận dịch vụ y tế, đồng thời dịch bệnh sởi thường có chu kỳ 4 – 5 năm một lần, hiện đang nằm trong chu kỳ dịch, vì vậy dịch bệnh rất dễ bùng phát nếu không thực hiện các biện pháp đáp ứng kịp thời.

Để phòng chống bệnh sởi, Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế khuyến cáo:

1. Chủ động thực hiện tiêm chủng vắc xin, đây là biện pháp phòng bệnh đặc hiệu và tốt nhất phòng bệnh sởi

– Đưa trẻ từ 9-12 tháng đến cơ sở y tế để được tiêm vắc xin phòng sởi mũi 1, tiêm nhắc lại mũi 2 khi trẻ đủ 18 tháng tuổi.

– Đưa trẻ đi tiêm bổ sung vắc xin phòng bệnh sởi tại các vùng nguy cơ theo các đợt tổ chức tiêm của ngành y tế và chính quyền địa phương.

– Trẻ trên 5 tuổi và người lớn chưa được tiêm vắc xin sởi cần được tiêm vắc xin tại các điểm tiêm chủng dịch vụ, nếu không tiêm sẽ có nguy cơ rất cao mắc bệnh sởi bất kỳ lúc nào.

Tiêm vắc xin là biện pháp phòng bệnh đặc hiệu và tốt nhất phòng bệnh sởi. Ảnh minh họa.

2. Thường xuyên vệ sinh đường mũi, họng, mắt hàng ngày.

3. Không cho trẻ em dùng chung vật dụng cá nhân (khăn mặt, bàn chải, kính, cốc, chén, bát, đũa …), đồ chơi hoặc đồ vật dễ bị ô nhiễm chất tiết mũi họng. Làm sạch đồ chơi, đồ vật bị nghi ngờ ô nhiễm dịch tiết mũi họng của bệnh nhân bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa thông thường với nước sạch.

4. Lau sàn nhà, nắm đấm cửa, mặt bàn, ghế, khu vệ sinh chung hoặc bề mặt của đồ vật nghi ngờ bị ô nhiễm dịch tiết mũi họng của bệnh nhân bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa thông thường từ 1 – 2 lần/ngày.

5. Thường xuyên mở cửa sổ, cửa chính để ánh nắng chiếu vào và đảm bảo thông khí thoáng cho nhà ở, phòng học, nơi làm việc, phòng điều trị hàng ngày.

6. Cho trẻ nghỉ học khi mắc bệnh. Hạn chế tập trung đông người, hội họp, đặc biệt tại những phòng chật hẹp, ít thông khí ở khu vực ổ dịch..

7. Hạn chế tiếp xúc với người mắc hoặc người nghi mắc bệnh, khi phải tiếp xúc với người bệnh phải đeo khẩu trang y tế và các trang bị phòng hộ cá nhân.

8. Khi có các dấu hiệu của bệnh sởi (sốt, ho, chảy nước mũi, phát ban) cần sớm cách ly và đưa trẻ đến các cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám, tư vấn điều trị kịp thời. Không nên đưa trẻ điều trị vượt tuyến khi không cần thiết để tránh quá tải bệnh viện và lây nhiễm chéo trong bệnh viện.

Dương Hải

]]>
Một số câu hỏi đáp liên quan đến vắc-xin ComBE Five http://tapchisuckhoedoisong.com/mot-so-cau-hoi-dap-lien-quan-den-vac-xin-combe-five-17906/ Tue, 22 Jan 2019 14:26:50 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/mot-so-cau-hoi-dap-lien-quan-den-vac-xin-combe-five-17906/ [...]]]>

Trả lời: Vắc-xin ComBE Five là vắc-xin phối hợp “5 trong 1” DPT-VGB-Hib bao gồm giải độc tố vi khuẩn bạch hầu, uốn ván, vi khuẩn ho gà bất hoạt, kháng nguyên virut viêm gan b và kháng nguyên vi khuẩn Haemophilus influenzae týp b.

Lịch tiêm vắc-xin ComBE Five trong tiêm chủng mở rộng cho trẻ dưới 1 tuổi vào lúc 2, 3 và 4 tháng tuổi để phòng các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm: bạch hầu, uốn ván, ho gà, viêm gan B và viêm phổi/ viêm màng não mủ do vi khuẩn Hib.

Hỏi: Vắc-xin ComBE Five được sản xuất ở đâu và đã được sử dụng ở những quốc gia nào?

Trả lời: Vắc-xin ComBE Five do Công ty Biological E, Ấn Độ sản xuất, vắc-xin đạt tiêu chuẩn tiền thẩm định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) từ năm 2012. Tính tới nay hơn 400 triệu liều vắc-xin ComBE Five đã được sử dụng ở 43 quốc gia.

Vắc-xin ComBE Five đã được thử nghiệm lâm sàng ở Việt Nam và được chứng minh là an toàn. Vắc-xin đã được Bộ Y tế cấp phép lưu hành tháng 5 năm 2017.

Một số câu hỏi đáp liên quan đến vắc-xin ComBE FiveVắc-xin ComBE Five là vắc-xin phối hợp có thành phần tương tự như vắc-xin Quinvaxem.

Hỏi: Vắc-xin ComBE Five có gì khác với Quinvaxem về thành phần, hiệu quả và tính an toàn?

Trả lời: Vắc-xin ComBE Five là vắc-xin phối hợp có thành phần tương tự như vắc-xin Quinvaxem gồm giải độc tố vi khuẩn bạch hầu, giải độc tố vi khuẩn uốn ván, vi khuẩn ho gà bất hoạt (toàn tế bào), kháng nguyên bề mặt virut viêm gan B và kháng nguyên vỏ vi khuẩn Hib.

Vắc-xin có tác dụng phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B và viêm phổi/viêm màng não mủ do vi khuẩn Hib giống như vắc-xin Quinvaxem.

Vắc-xin ComBE Five có thành phần ho gà toàn tế bào vì vậy tính an toàn và hiệu quả của vắc-xin ComBE Five tương tự như các vắc-xin DPT-VGB-Hib có thành phần ho gà toàn tế bào và tương tự như vắc-xin Quinvaxem.

Hỏi: Vắc- xin có bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ khi vận chuyển và bảo quản không?

Trả lời: Trong quá trình vận chuyển, bảo quản các vắc-xin thuộc chương trình TCMR luôn được bảo quản trong các thiết bị lạnh chuyên dụng như buồng lạnh, tủ lạnh, thùng lạnh của xe tải lạnh chuyên dụng, hòm lạnh, phích vắc-xin, để đảm bảo vắc-xin được bảo quản ở nhiệt độ từ +2oC đến +8oC.

Hầu hết các vắc-xin đều có tính bền vững với nhiệt độ khi tiếp xúc với nhiệt độ cao (trên +8oC) hoặc nhiệt độ thấp (dưới +2oC). Việc bảo quản vận chuyển vắc-xin ở nhiệt độ không thích hợp trong thời gian dài có thể ảnh hưởng tới chất lượng của vắc-xin như làm giảm hiệu quả phòng bệnh của vắc-xin hoặc có thể gây ra phản ứng tại chỗ tiêm.

Vắc-xin ComBE Five có dạng trình bày tương tự như vắc-xin Quinvaxem, vắc-xin được đóng 01 liều/lọ và lọ vắc-xin có gắn chỉ thị nhiệt độ (VVM) để giám sát việc tiếp xúc với nhiệt độ của từng lọ vắc-xin trong quá trình bảo quản, vận chuyển trước khi sử dụng.

Hỏi: Vắc-xin ComBE Five phải nhập khẩu từ nước ngoài, vậy công tác kiểm định và quản lý chất lượng được thực hiện như thế nào?

Trả lời: Đối với các vắc-xin nhập khẩu vào Việt Nam đều phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của Việt Nam. Các vắc-xin này phải thực hiện các thủ tục để đăng ký lưu hành bao gồm các thử nghiệm cần thiết và đảm bảo đạt được các tiêu chuẩn theo quy định của Việt Nam và của Tổ chức Y tế Thế giới. Vắc-xin chỉ được cấp phép sử dụng tại Việt Nam sau khi đã được kiểm định đạt được các yêu cầu của Việt Nam và thực hiện tất cả các thủ tục cần thiết. Từng lô vắc-xin khi nhập vào Việt Nam đều được Viện Kiểm định quốc gia Vắc-xin và Sinh phẩm y tế kiểm định và đạt tiêu chuẩn về an toàn trước khi đưa vào sử dụng.

Hỏi: Vắc- xin ComBE Five đã được sử dụng ở Việt Nam chưa, sau tiêm chủng có cháu nào bị phản ứng nặng không?

Trả lời: Vắc-xin đã được sử dụng tại thực địa 4 huyện của tỉnh Hà Nam năm 2016 và 4 tỉnh trong tháng 11/2017, sau tiêm chủng chỉ ghi nhận một số phản ứng thông thường xuất hiện vào ngày thứ nhất sau tiêm vắc-xin bao gồm phản ứng tại chỗ tiêm như đau, quầng đỏ với tỷ lệ từ 5-15%, sốt  tỷ lệ 34-39%.

(Còn nữa)

Đường dây nóng tư vấn về vắc- xin và an toàn tiêm chủng các vắc- xin trong tiêm chủng mở rộng
Nhằm giải đáp thắc mắc, tư vấn đồng thời cung cấp thông tin truyền thông về tiêm chủng mở rộng, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương – Dự án Tiêm chủng mở rộng (TCMR) sẽ sử dụng số điện thoại 0981.480.480 để làm đường dây trả lời trực tiếp cho người dân và cộng đồng. Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương – Dự án Tiêm chủng mở rộng xin trân trọng thông báo tới cộng đồng và các đơn vị liên quan.

 

Dự án TCMR

]]>
Cần can thiệp sớm điều trị điếc cho trẻ http://tapchisuckhoedoisong.com/can-can-thiep-som-dieu-tri-diec-cho-tre-17889/ Mon, 21 Jan 2019 14:31:14 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/can-can-thiep-som-dieu-tri-diec-cho-tre-17889/ [...]]]>

Trước đây, điếc nặng hay điếc sâu bẩm sinh gây hậu quả nặng nề về lời nói nên có tên gọi là điếc câm. Ngày nay, để người bị điếc không cảm thấy bị thiếu tôn trọng, Hiệp hội người điếc thế giới thống nhất dùng thuật ngữ điếc và khó nghe. Tuy nhiên, để trẻ điếc có thể hòa nhập với cộng đồng trong học tập và lao động thì vấn đề can thiệp sớm có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Sự phát triển thính giác

Ngay từ khi sinh ra, bộ máy thính giác đã hoàn thiện, hệ thống thần kinh thính giác ngoại biên hoạt động nhưng chỉ đến 4 tuổi sự hình thành các bao sợi dây thần kinh mới hoàn chỉnh. Sự thành thục của hệ thần kinh trung ương tùy thuộc vào hoạt động bình thường của cơ quan thần kinh ngoại biên. Trẻ sơ sinh chỉ phản ứng với tiếng ồn ở khoảng 60-100dB, đến khi trẻ từ 4-6 tháng ngưỡng này chỉ khoảng 10-20dB. Lúc đầu, trẻ phản ứng với kích thích âm theo phản xạ như: co cơ lan tỏa hay khu trú, nháy mi, thay đổi nhịp thở hay quay đầu chậm hướng về nguồn âm. Trẻ sơ sinh hay những tuần đầu của trẻ nhũ nhi có thể không có bất kỳ phản ứng nào với kích thích âm mặc dù bộ máy thính giác bình thường. Chỉ khi trẻ khoảng 4-5 tháng tuổi, phân biệt thế giới âm mới dần dần xuất hiện. Trẻ hướng về nguồn tiếng ồn, rồi nhận biết được một số tiếng ồn như tiếng mẹ, tiếng lắc bình sữa…

Trên lâm sàng, phương pháp đo thính lực ứng xử khó xác định ở trẻ nhỏ, vì vậy trước đây những trường hợp trẻ 5-6 tuổi mới chẩn đoán bị điếc sâu không phải là hiếm. Nhưng từ những năm 90 của thế kỷ trước, nhờ tiến bộ của các thăm dò thính giác khách quan như đo âm ốc tai (OtoAcoustic Emission – OAE), đo điện thế kích thích thân não (Auditory Brain stem Responses – ABR) nên trẻ được phát hiện điếc từ rất sớm. Vì lợi ích của các thăm dò này, nhiều nước trên thế giới đã thực hiện đo âm ốc tai OAE sàng lọc cho tất cả trẻ trong vòng 3 ngày sau sinh để phát hiện sớm.

Cần can thiệp sớm điều trị điếc cho trẻ

Quá trình hình thành ngôn ngữ

Dù nghe bình thường hay điếc hoàn toàn, khoảng 3 hay 4 tháng tuổi, trẻ sẽ tự phát ra các âm, đó là lời nói bi bô (babil). Trẻ nghe bình thường sẽ tình cờ phát ra nhiều âm mà dần dần nó tự hiệu chỉnh dựa trên tiếng nói của người xung quanh. Nhờ cố gắng bắt chước, thử và mò mẫm, trẻ dần dần sẽ nhắc lại được những từ đơn giản mà nó nghe thấy. Chính vì vậy, tiếng nói được tạo ra dựa trên một vòng tròn thực sự về thính thanh học.

Trẻ bị điếc nặng không nghe được những âm mà nó phát ra và không hòa vào môi trường âm thanh xung quanh. Nên vài tháng sau, lời nói bi bô sẽ ít dần, rồi biến mất. Ngoài ra, điếc nặng còn gây hậu quả lớn trong lĩnh vực cảm xúc tâm lý của trẻ. Do không nghe được và không nói được, trẻ điếc sâu sẽ bị cô lập với thế giới bên ngoài, trẻ không thể hiểu suy nghĩ của người khác cũng như không thể thể hiện những mong muốn của chúng. Vì vậy dẫn đến các biểu hiện: rối loạn tâm lý, thiếu các quan hệ xã hội và nghèo nàn hiểu biết về thế giới bên ngoài. Tùy theo mỗi trẻ, phản ứng diễn ra khác nhau: gây gổ, phẫn nộ, vô cảm hay tính nết thất thường. Tình trạng này đôi khi trở nên trầm trọng tùy thuộc vào cách đối xử của gia đình: bỏ rơi hay quá bao bọc trẻ.

Cần can thiệp sớm điều trị điếc cho trẻCấu tạo tai.

Sự cần thiết phải can thiệp sớm

Khi trẻ điếc đã hoàn toàn không nói trong một thời gian dài thì việc phát âm trở lại sau này sẽ trở nên khó khăn. Do vậy, một trong những vai trò của giáo dục sớm là duy trì và khuyến kích phát âm ở trẻ rất nhỏ này. Đồng thời các công trình nghiên cứu gần đây khẳng định: phát hiện và can thiệp sớm cho trẻ điếc giúp trẻ hòa nhập tốt hơn với thế giới bên ngoài do tính tự tạo của não phát triển nhất ở giai đoạn này. Trẻ nhỏ bị phát hiện điếc sâu hay điếc nặng đều phải đeo máy trợ thính, giáo dục sớm và hướng dẫn cha mẹ.

Nhờ sự phát triển của công nghệ điện tử và thông tin, các kích thích âm sẽ được làm giàu lên nhờ máy trợ thính và ngày nay là cấy ốc tai điện tử. Đeo máy trợ thính sớm trước 6 tháng tuổi, thậm chí vào khoảng tháng thứ 3 cho phép trẻ sử dụng phần thính giác còn lại, đa số các trường hợp là các tần số trầm còn tồn tại. Tuy nhiên, máy trợ thính không cho phép trẻ nhận biết được thế giới âm thanh mà người bình thường nhận thấy mà chỉ cho một số thông tin thính giác. Nếu đeo máy muộn sau 3-4 tuổi, trẻ đã quen với thế giới mà não không có các thông tin thính giác, vì vậy hiệu quả đeo máy sẽ kém hơn rất nhiều. Đeo máy sớm sẽ tạo điều kiện rèn luyện thính giác thực sự và do vậy kích thích trẻ chú ý vào thế giới âm thanh.

TS.BS. Đoàn Thị Hồng Hoa

]]>
Cách chăm sóc bé mới ốm dậy http://tapchisuckhoedoisong.com/cach-cham-soc-be-moi-om-day-17883/ Sun, 20 Jan 2019 14:29:32 +0000 http://tapchisuckhoedoisong.com/cach-cham-soc-be-moi-om-day-17883/ [...]]]>

Trong những năm đầu của cuộc đời, chế độ dinh dưỡng và chăm sóc trẻ là điều rất cần thiết để trẻ khỏe mạnh, phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Đặc biệt khi trẻ mới ốm dậy, cơ thể và sức đề kháng còn rất yếu, nên bé cần được chăm sóc đặc biệt. Đôi khi những cách chăm sóc bé không đúng khoa học đã để lại những hậu quả không tốt và đáng ngại hơn cả là suy dinh dưỡng

Có nên bồi bổ quá mức?

Các bé sau khi ốm dậy thường bị sút cân, xanh xao và cơ thể yếu ớt. Các bậc cha mẹ thường hay xót con, liền lập tức ra chợ mua về đủ các loại thực phẩm dinh dưỡng để tẩm bổ cho con, hy vọng con sớm tăng cân khỏe mạnh trở lại. Và khi con không ăn được thì liền làm đủ mọi trò nịnh nọt, dọa nạt bé để bắt bé ăn. Đây quả thực là một thói quen xấu và sai lầm trong cách chăm sóc bé của các bậc cha mẹ. Bởi họ không hiểu được tâm lý của con lúc này.

Trên thực tế, trẻ vừa mới trải qua một thời kỳ khó khăn, mệt mỏi vì phải chống đỡ lại bệnh tật. Cơ thể bé còn yếu và mọi cơ quan, chức năng, tất nhiên không loại trừ cả hệ tiêu hóa của trẻ cũng còn đang rất mệt mỏi và ít hoạt động. Trẻ lúc này thường không có cảm giác thèm ăn, ngại ăn những loại thực phẩm rắn và lười tiêu hóa.

Để trẻ ăn ngon miệng và đủ chất dinh dưỡng

Lúc này bạn nên chiều theo ý muốn ăn uống của con, cho con ăn những món con ưa thích, mục đích là để kích thích trẻ có cảm giác muốn được ăn, thèm ăn. Tuy nhiên, những món ăn đó cần lành mạnh, không quá ảnh hưởng tới dạ dày và sự tiêu hóa của trẻ. Để bé có bữa ăn ngon, người chăm sóc trẻ phải biết cách chế biến thức ăn, nếu chỉ cho ăn nước thịt, nước xương, nước rau luộc thì dù ăn đủ số bữa trẻ vẫn suy dinh dưỡng, còi xương, thiếu máu. Vì vậy ngay cả khi bé ốm vẫn phải cho trẻ ăn cả cái, kể cả rau xanh. Trẻ càng nhỏ thì thức ăn càng phải xay nhỏ, băm nhỏ, giã nhỏ. Muốn biết trẻ đã được ăn uống đúng và đủ chưa, cần theo dõi cân nặng của trẻ trên biểu đồ phát triển, nếu trẻ lên cân đều đặn tương ứng với kênh A trên biểu đồ là trẻ đã được nuôi dưỡng tốt. Còn không lên cân, hoặc tụt cân thì có thể trẻ bị bệnh hoặc nuôi dưỡng không đúng. Cần tìm nguyên nhân can thiệp sớm.

Ngoài ăn, bạn cũng nên lưu ý chuẩn bị và cho bé uống nước thường xuyên. Có những bé sẽ thích uống sữa, có bé lại bị nôn mửa khi uống. Có thể cho bé uống thay đổi các loại nước như: nước trắng, nước trái cây hoặc sữa tùy theo ý thích của bé nhưng không nên cho bé uống nước ngọt có ga.

Những việc cần làm trong chăm sóc bé ốm

Thay vì ép trẻ ăn nhiều trong mỗi bữa, mẹ hãy cho bé ăn thành nhiều bữa trong ngày, và số lượng cho từng bữa ít đi.

Mỗi bữa ăn cho trẻ cần giàu chất dinh dưỡng hơn, nên nấu nhừ, loãng cho bé dễ ăn. Không kiêng khem quá mức. Có những cha mẹ sai lầm khi không cho bé ăn các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng như: tôm, cá, dầu mỡ và các loại rau xanh. Điều này là sai.

Khi trẻ ốm sốt, hay sau khi ốm dậy cơ thể thường mệt mỏi, mất hoặc thiếu nước. Vì thế bạn cần cho bé uống nhiều nước, vì đây cũng là cách bé có thể bổ sung dinh dưỡng nhanh nhất và dễ dàng nhất, đặc biệt cần thiết đối với các bé bị tiêu chảy. Tuy nhiên nếu trẻ bị tiêu chảy nên tránh cho trẻ ăn những thức ăn có chứa nhiều đường, nước ngọt có ga vì có thể làm cho tình trạng tiêu chảy nặng hơn. Ngoài ra cần tránh các thức ăn có nhiều chất xơ, ít dinh dưỡng như rau thô, tinh bột nguyên hạt như ngô, đỗ gây khó tiêu cho trẻ.

Nếu trẻ bị viêm nhiễm hô hấp, bị sổ mũi cần làm thông thoáng mũi cho trẻ để trẻ có thể bú mẹ và ăn uống bình thường.

BS. Trần Thị Hạnh

]]>