Nghiên cứu cho thấy khắc phục những rối loạn giấc ngủ trong thai kỳ có thể làm giảm nguy cơ phát triển GDM. GDM là một trong những rối loạn sức khỏe phổ biến nhất trong thai kỳ. Hàm lượng đường huyết cao không kiểm soát được có thể gây ra những biến chứng ảnh hưởng tới cả mẹ và con bao gồm đẻ non, đẻ khó, huyết áp cao ở mẹ và tử vong thai nhi. Giấc ngủ được xác định là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới chuyển hóa đường huyết và một số nghiên cứu chỉ ra rằng thiếu ngủ là một yếu tố nguy cơ của tiểu đường týp 2.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã tìm hiểu mối liên quan giữa giấc ngủ và GDM, đặc biệt ở cư dân châu Á. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng những người trưởng thành ở Singapore nằm trong số những người ít ngủ nhất thế giới. Thiếu ngủ có thể góp phần gây ra GDM ở phụ nữ châu Á, những người vốn có nguy cơ GDM tăng so với phụ nữ da trắng. Để xác định xem thiếu ngủ có liên quan với tăng nguy cơ GDM không, PGS Joshua Gooley từ trường Y Duke-NUS và TS Cai Shirong từ ĐH Quốc gia Singapore đã phân tích giấc ngủ và hàm lượng glucose ở những người tham gia trong nghiên cứu.
Các nhà nghiên cứu đã khảo sát 686 phụ nữ về mô hình giấc ngủ và đánh giá hàm lượng glucose của họ trong một xét nghiệm lâm sàng tiêu chuẩn (xét nghiệm dung nạp glucose đường uống) ở tuần thứ 26 và 28 của thai kỳ. Trong số 686 những người tham gia được đo đường huyết, 131 (19%) được chẩn đoán bị GDM. Phân tích thống kê được thực hiện để đánh giá xem ngủ ít, được định nghĩa là dưới 6 tiếng/đêm có liên quan với tỷ lệ lớn hơn bị GDM. Các nhà nghiên cứu tháy rằng ngủ ít có liên quan tới tăng nguy cơ GDM, sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gồm độ tuổi, chỉ số khối cơ thể (BMI) và tiền sử GDM.
Điều thú vị là, tần suất GDM là cao nhất (27,3%) ở những người báo cáo ngủ ít hơn 6 tiếng/đêm và thấp nhất ở những (16,8%) ở những người ngủ từ 7-8 tiếng/đêm. Kết quả này phù hợp với những phát hiện chỉ ra rằng ngủ ít có liên quan tới tiểu đường týp 2 ở những người không mang thai. Nghiên cứu này đưa ra khả năng rằng thói quen ngủ tốt có thể làm giảm nguy cơ đường huyết cao và GDM.
Theo các nhà nghiên cứu, cần có thêm các nghiên cứu để đánh giá sự góp phần của các yếu tố lối sống có thể thay đổi khác vào nguy cơ GDM.
BS Thu Vân
(Theo Asianscientist)