Hạt ngô rất giàu dinh dưỡng: protein, chất béo, chất đường; chất xơ, canxi, photpho, chất sắt, caroten, các vitamin… Không chỉ là nguồn lương thực giúp chế độ dinh dưỡng hoàn chỉnh hơn, nó còn có vai trò phòng chữa nhiều bệnh: tim mạch (tăng huyết áp, mỡ máu cao, xơ cứng mạch); bệnh thận (viêm thận, phù nề); bệnh tiêu hóa; chống lão hóa… Dưới đây xin giới thiệu một số cách chữa bệnh đơn giản từ ngô.
Bướu cổ đơn thuần và sốt rét: Ăn ngô hằng ngày hoặc nấu canh ngô với cải xoong càng làm tăng lượng iốt (cải xoong mọc ven suối). Ăn ngô cũng có nhiều ích lợi trong phòng chữa sốt rét (trừ đàm).
Chữa đái tháo đường: 1 lạng râu ngô, 1 cái tụy lợn nấu canh ăn.
Bệnh tim mạch:
Râu ngô nấu tim heo: râu ngô nấu lấy 1 bát to nước (bỏ bã râu) nấu canh với tim heo để ăn. Ăn một thời gian người bị bệnh sẽ thấy đỡ mệt tim và dễ thở hơn, ngủ ngon giấc hơn.
Uống nước luộc từ râu, lõi, thân, cùi bắp của ngô đều lợi tiểu. Dùng tốt cho người tăng huyết áp.
Bệnh thận, bàng quang: tiểu tiện buốt, khó khăn, đỏ sẻn, sỏi thận, phù nề. Dùng râu ngô hoặc cùi ngô nấu nước uống.
Nước râu ngô giúp lợi tiểu, tốt cho người tăng huyết áp.
Bổ thận tráng dương:
Hạt ngô nguyên vỏ (không xay xát) rang cho thật vàng rồi nấu lấy nước uống thay trà hàng ngày. Hoặc lấy nước đó nấu với thịt bồ câu, bồ dục, ngẩu pín, sò… tác dụng càng mạnh.
Hạt ngô nấu xương heo: 1kg xương heo với 2 nắm ngô hạt (tỷ lệ 1kg/2 nắm) hầm cho nhừ. Chữa bất lực. Nếu muốn hiệu quả cao hơn (dẻo dai) thì uống kèm rượu thuốc gồm: nhục thung dung 150g, câu kỷ tử 200g, toàn quy 200g, sâm cao ly 200g, dâm dương hoắc 100g, đại táo 20 quả.
Ngoài tác dụng bổ thận tráng dương, món này có tác dụng đại bổ nguyên khí, giúp ăn ngon, ngủ tốt, lao động không mệt, da dẻ hồng hào, trẻ lâu. Món này nấu với cơm rượu giúp sản phụ có nhiều sữa nuôi con và sau đó ngực vẫn săn chắc. Nếu cho thêm đậu tương, đậu phộng (lạc) sẽ được dùng chữa đau lưng.
Bệnh tiêu hóa:
Bệnh gan mật – vàng da, có sỏi: râu ngô, nhân trần mỗi thứ 30g hãm hoặc sắc nước uống thay trà hàng ngày làm tăng tiết mật. Có thể dùng ruột cây ngô thay râu ngô.
Bệnh dạ dày – chứng ợ chua, đầy bụng không tiêu, sa dạ dày: ăn cháo ngô hạt, uống nước râu ngô. Không dùng cho người bị loét dạ dày.
Bệnh trẻ em:
Mùa hè trẻ hay nóng sốt, háo khát, quấy khóc, trẻ ho gà, ho khi bị sởi: Dùng râu ngô nấu nước cho trẻ uống.
Trẻ đái ít đỏ sẻn: lấy cùi ngô nấu nước uống. Có thể nấu cùng hạt ý dĩ.
Trẻ biếng ăn, tiêu chảy phân sống cho ăn cháo ngô non nấu với cà rốt, hoặc cháo ngô đậu trắng (bạch biển đậu).
Hỗ trợ điều trị ung thư dạ dày, tụy: Hạt ngô nghiền nhỏ 100g cho nước ninh nhừ thành cháo để ăn. Có tác dụng giảm đau.
Lưu ý: Bắp ngô non nên luộc không nướng và cũng không nên phết mỡ vì nướng sẽ thêm tác hại của mỡ cháy.
Ngô mốc phải bỏ đi không ăn vì có thể gây ung thư.
BS. Phó Thuần Hương