Hiện nay vấn đề nhiễm trùng bệnh viện đang được các cơ sở y tế chú ý ngăn ngừa bằng nhiều biện pháp để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng mắc phải, trong đó có nhiễm trùng hậu sản.
Nhiễm trùng hậu sản là tình trạng nhiễm trùng xảy ra ở sản phụ sau khi sinh xuất phát từ đường sinh dục như âm đạo, cổ tử cung, tử cung trong 6 tuần đầu sau đẻ. Một số vi khuẩn gây nhiễm trùng trên thực tế thường gặp là tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn, E. coli, các vi khuẩn kỵ khí như Clostridium, Bacteroides… Đường lan truyền để gây nhiễm khuẩn có thể từ âm đạo qua cổ tử cung, qua vòi tử cung vào phúc mạc; đồng thời vi khuẩn cũng có thể xâm nhập qua chỗ nhau bám vào máu gây nhiễm trùng máu. Yếu tố thuận lợi để gây nên tình trạng nhiễm trùng hậu sản do sản phụ có điều kiện dinh dưỡng kém, bị thiếu máu, nhiễm độc thai nghén, ối vỡ non, ối vỡ sớm, chuyển dạ kéo dài, bế sản dịch; do thực hiện các thủ thuật sản khoa như bóc nhau, kiểm soát tử cung…
Các hình thái nhiễm trùng hậu sản thường gặp là nhiễm khuẩn tầng sinh môn, âm hộ, âm đạo; viêm niêm mạc tử cung, viêm tử cung và viêm quanh tử cung, viêm phúc mạc tiểu khung, viêm phúc mạc toàn bộ, nhiễm trùng huyết, viêm tắc tĩnh mạch.
Nhiễm khuẩn tầng sinh môn, âm hộ, âm đạo
Tầng sinh môn, âm hộ, âm đạo bị nhiễm khuẩn thường do vết khâu tầng sinh môn không bảo đảm vô trùng, việc khâu phục hồi tầng sinh môn không đúng kỹ thuật hoặc bỏ sót không khâu, sót gạc trong âm đạo. Sản phụ có triệu chứng sốt không cao; tại chỗ vết thường có biểu hiện sưng, đỏ, đau và nung mủ; sản dịch không có mùi hôi. Biện pháp xử trí điều trị chủ yếu là chăm sóc tại chỗ bằng cách rửa sạch vết thương với thuốc sát khuẩn, cắt bỏ chỉ khâu tầng sinh môn khi có nung mủ, đóng băng vệ sinh, dùng gạc vô khuẩn để băng vết thương; có thể dùng kháng sinh nếu cần.
Viêm niêm mạc tử cung
Niêm mạc tử cung bị viêm do các nguyên nhân như sót nhau, sót màng nhau, nhiễm khuẩn ối, thực hiện thủ thuật kiểm soát tử cung, bóc nhau bằng tay không bảo đảm vô khuẩn. Sản phụ bị viêm niêm mạc tử cung có biểu hiện triệu chứng sốt 38 – 38,50C sau khi sinh vài ba ngày, mệt mỏi, khó chịu; sản dịch ra nhiều, có mùi hôi, có thể lẫn cả máu và mủ…; khám thấy cổ tử cung hé mở, tử cung co lại chậm, ấn tử cung gây đau; cần xét nghiệm lấy sản dịch cấy tìm vi khuẩn gây bệnh và làm kháng sinh đồ. Một hình thái nặng hơn của viêm niêm mạc tử cung là viêm tử cung toàn bộ, quá trình viêm nhiễm có thể lan tới lớp cơ tử cung với những ổ áp xe nhỏ; các triệu chứng lâm sàng có dấu hiệu nặng hơn viêm niêm mạc tử cung và dễ gây nên viêm phúc mạc hoặc nhiễm trùng máu. Biện pháp xử trí điều trị là dùng loại kháng sinh toàn thân như: ampicillin, gentamycin; thuốc làm tăng co bóp tử cung như: oxytocin, ergometrine; nếu nguyên nhân do sót nhau thì phải đợi đến khi nhiệt độ cơ thể giảm hoặc hết sốt mới được nong nạo buồng tử cung, nếu nguyên nhân gây viêm tử cung toàn bộ phải cắt bỏ tử cung toàn phần và xét nghiệm cấy máu để phát hiện sớm tình trạng nhiễm trùng huyết.
Viêm tử cung và viêm quanh tử cung
Bệnh lý viêm tử cung và viêm quanh tử cung làm cho sản phụ bị sốt sau khi sinh khoảng 8 – 10 ngày; lúc khám sờ nắn tiểu khung thấy một khối mềm, đau, bờ không rõ, hiện tượng di động hạn chế; sản dịch ra nhiều, có mùi hôi, cổ tử cung chậm đóng lại, tử cung co lại chậm. Tiến triển bệnh lý tùy theo từng trường hợp, bệnh có thể khỏi nếu được điều trị tích cực có đáp ứng hoặc trở thành viêm phúc mạc tiểu khung. Biện pháp xử trí điều trị là cho sản phụ nằm nghỉ ngơi, chườm đá lạnh và sử dụng loại kháng sinh thích hợp; trường hợp viêm nhiễm đã tạo thành túi mủ thì phải chọc túi mủ và dẫn lưu qua túi cùng âm đạo, nếu không đáp ứng phải cắt bỏ tử cung và sử dụng kháng sinh phù hợp với liều cao truyền bằng đường tĩnh mạch.
Viêm phúc mạc tiểu khung
Quá trình viêm phúc mạc tiểu khung không khu trú ở niêm mạc tử cung mà chúng phát triển vào tiểu khung để hình thành những giả mạc ở các tạng trong tiểu khung và gây dính với nhau. Phản ứng của phúc mạc sẽ sinh ra các túi dịch lẫn máu và mủ. Triệu chứng bệnh lý xảy ra trung bình khoảng từ 7 – 15 ngày sau khi sinh và có biểu hiện rầm rộ hơn viêm niêm mạc tử cung; nhiệt độ cơ thể tăng dần 38 – 400C, rét run, mệt mỏi, lưỡi bẩn; khám thấy có phản ứng thành bụng ở tiểu khung, bụng chướng nhẹ, ở phần trên của tiểu khung bụng mềm; khám âm đạo thấy cổ tử cung bé, tử cung to, di động và đau; các túi cùng âm đạo phù nề và đau; nếu khám âm đạo kết hợp với sờ nắn bụng thấy vùng tiểu khung có khối rắn, không di động, đau; xét nghiệm máu ghi nhận bạch cầu tăng, cần cấy sản dịch để tìm vi khuẩn gây bệnh và làm kháng sinh đồ. Khi điều trị tích cực và đáp ứng, bệnh tiến triển tốt và có thể khỏi những cũng có trường hợp phát triển thành viêm múc mạc toàn bộ. Biện pháp xử trí điều trị bằng cách cho sản phụ nghỉ ngơi, chườm đá lạnh, dùng kháng sinh phù hợp với liều cao; nếu có ápxe ở túi cùng Douglas phải chọc dò và dẫn lưu qua túi cùng âm đạo; trường hợp điều trị không đáp ứng phải cắt bỏ tử cung và sử dụng kháng sinh thích hợp với liều cao truyền qua đường tĩnh mạch.
Viêm phúc mạc toàn bộ
Viêm phúc mạc toàn bộ xảy ra thường do nguyên nhân sau mổ lấy thai không vô khuẩn, sau viêm niêm mạc tử cung và viêm tử cung toàn bộ không được điều trị tốt, sau khi thực hiện các thủ tục sản khoa bóc nhau và kiểm soát tử cung; đồng thời cũng có thể do vi khuẩn lan tràn từ bệnh lý ứ mủ ở vòi trứng gây viêm phúc mạc. Triệu chứng viêm phúc mạc toàn bộ biểu hiện sau khi sản phụ sinh khoảng từ 7 – 10 ngày hoặc sau khi mổ đẻ khoảng 3 – 4 ngày với dấu hiệu môi khô, lưỡi bẩn, mắt trũng; có hội chứng nhiễm độc, nhiễm trùng; đại tiện có khi phân lỏng và mùi rất hôi, có phản ứng thành bụng hoặc cảm ứng phúc mạc nhưng nhiều khi không rõ; chụp phim X-quang bụng không chuẩn bị thấy bụng có quai ruột giãn, có mức nước và mức hơi; xét nghiệm điện giải đồ ghi nhận các thành phần Ca++. Cl– giảm. Lưu ý cần chẩn đoán phân biệt với bệnh lý viêm phúc mạc tiểu khung, liệt ruột cơ năng. Xử trí điều trị bằng cách sử dụng kháng sinh toàn thân phù hợp, bồi phụ nước và các chất điện giải, thực hiện phẫu thuật cắt bỏ tử cung bán phần, tiến hành rửa và dẫn lưu ổ bụng.
Nhiễm trùng huyết
Nhiễm trùng huyết là hình thái bệnh lý nặng nhất trong nhiễm trùng hậu sản. Sản phụ sau khi sinh bị sốt cao liên tục, nhiệt độ dao động, kèm theo triệu chứng sốt cao là rét run, toàn thân mệt mỏi; có dấu hiệu nhiễm trùng, nhiễm độc như: môi khô, lưỡi bẩn, khó thở, da vàng, nước tiểu sẫm màu; nghe phổi có tiếng ran; có thể thấy các biểu hiện của các ổ nhiễm khuẩn thứ phát như ápxe cơ, ápxe gan, ápxe não; khám sản khoa thấy cổ tử cung hé mở, tử cung to và co hồi lại chậm, ấn tử cung đau, sản dịch có mùi hôi và bẩn lẫn máu mủ; cấy máu và cấy sản dịch nếu có kết quả dương tính là xác định chẩn đoán chắc chắn nhiễm trùng huyết, nếu kết quả âm tính cũng không thể loại trừ và chủ yếu vẫn căn cứ vào triệu chứng lâm sàng; thực hiện các xét nghiệm khác thấy hồng cầu giảm, bạch cầu tăng chủ yếu là tăng bạch cầu đa nhân trung tính, hematocrit giảm. Nhiễm trùng huyết có thể gây nên các biến chứng như suy thận cơ năng, viêm thận kẽ, ápxe phổi, viêm nội tâm mạc, ápxe não, viêm màng não… Tiên lượng bệnh tùy thuộc vào ổ nhiễm khuẩn thứ phát, việc điều trị có đáp ứng hiệu quả và kịp thời hay không. Điều trị nhiễm trùng huyết bằng cách sử dụng kháng sinh theo kết quả của kháng sinh đồ, khi chưa có kháng sinh đồ nên dùng loại kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng như nhóm cephalosporin, metronidazol, quinolon… kết hợp với biện pháp truyền máu, dùng thuốc trợ tim…; khi nhiệt độ cơ thể trở lại bình thường hoặc giảm xuống phải thực hiện phẫu thuật cắt bỏ tử cung bán phần để loại trừ ổ nhiễm khuẩn tiên phát.
Viêm tắc tĩnh mạch
Nguyên nhân gây viêm tắc tình mạch thường hay gặp ở những sản phụ mang thai con rạ có chuyển dạ kéo dài, lưu thông mạch máu ở hệ tĩnh mạch bị cản trở, có hiện tượng tăng sinh sợi huyết. Triệu chứng xuất hiện muộn khoảng 12 – 15 ngày sau khi sinh với biểu hiện sốt nhẹ, rét run, mạch nhanh; nếu viêm tắc tĩnh mạch chi dưới thì chân phù, màu trắng, ấn đau, gót chân không nhấc được khỏi giường. Nếu điều trị không kịp thời và đáp ứng có thể gây viêm tắc động mạch phổi, thận với nguy cơ dẫn đến tử vong. Trong quá trình điều trị, cần làm xét nghiệm thời gian máu chảy, máu đông; tiểu cầu, thời gian Quick và tỉ lệ prothrombin để theo dõi tiến triển của bệnh và sự đáp ứng điều trị; nên bất động chi bị viêm tắc tĩnh mạch ít nhất 3 tuần sau khi sản phụ hết sốt; sử dụng kháng sinh toàn thân kết hợp với corticoides sau vài ngày dùng kháng sinh; điều trị thuốc chống đông máu như heparin 25.000UI/kg cân nặng trong 24 giờ bằng đường tiêm tĩnh mạch hay nhỏ giọt tĩnh mạch hoặc dicoumarol 2 – 10 mg trong 24 giờ để kháng vitamin K có tác dụng chậm; theo dõi kết quả điều trị bằng xét nghiệm thời gian Howell, Quick.
Để đề phòng các bệnh lý nhiễm trùng hậu sản đối với sản phụ sau khi sinh đã được nêu ở trên, cần điều trị tích cực những ổ viêm nhiễm trong khi có thai như: viêm đường tiết niệu, viêm đường sinh dục…; lưu ý đề phòng nhiễm khuẩn ối và chuyển dạ kéo dài; trong khi sinh không để sót nhau, tuân thủ đúng các chỉ định kiểm soát tử cung, chế độ vô khuẩn và vệ sinh; sau khi sinh phải tránh tình trạng bế sản dịch, bảo đảm vệ sinh sạch sẽ, chăm sóc tầng sinh môn đúng quy định.
BS. NGUYỄN TRÂM ANH